ĐẤT NƯỚC LÂM
NGUY: đừng ham thân phận chư hầu
Trong
quá khứ, từng dài lâu gian nan chật vật đối đầu giặc xâm lấn Nguyên-
Mông- Hán nhưng có lẽ chưa bao giờ người Việt Nam nhìn thấy nguy cơ mất nước rõ
ràng như ngày nay. Kẻ thù xưa, càng lúc càng phát triển, lớn mạnh, và dân Việt
vẫn chia rẽ, suy đồi, yếu kém.
Làm
sao ra khỏi nguy cơ bị mất nước, thoát nạn bị tộc Hán đồng hoá ?
Hầu
như xưa nay ai cũng đồng ý với đề nghị : Phải cải tiến đất nước, phải làm cách mạng
kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục! Phải thay đổi chính con người chúng ta. Nhưng cho đến hiện giờ, kết quả ra sao?
Hơn
100 năm trước, trong thời thuộc Pháp, Phan Châu Trinh phát động phong trào Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Và cách đây 70 năm, đảng
cộng sản Việt Nam với Hồ Chí Minh và nhất là Lê Duẩn tổng bí thư
đảng từ 1960 đến 1986 hứa hẹn làm cuộc cách mạng long trời lở đất : Xây dựng
nền văn hoá mới, con người mới, xã hội chủ nghĩa. Chính ông tổng này tuyên
bố “ta không được phép...sợ người Trung Quốc” ! Ngày nay, các vị tổng mới cũng tuyên bố, phát động đủ thứ phong trào, chiến dịch để chống sâu bọ, chuột lớn chuột nhỏ, bảo vệ bình quý bình sứt, dùng củi ướt củi khô mà dường như tình thế càng lúc càng nguy nan. Càng lúc càng thế cô.
Chuyện
gì đã xảy ra khiến chỉ hơn ba mươi năm sau, thậm chí chỉ 20, 10 năm thôi, mọi sự
đổi thay nhanh chóng : vua Tàu thân chinh qua nước Việt răn đe dụ dỗ, vua
chúa dân quân quan lại Việt kéo nhau lần lượt sang chầu vua Hán và học hỏi sao
chép đủ cách về mọi chuyện, khiếp phục Tàu cộng đến mức độ (hình như một số lãnh đạo Việt
đã) ký mật ước xin làm hàng thần, xin hiến đất nước Việt làm một vùng tự trị?
Nếu
quả thật là như thế thì những người Việt này hiểu gì về thân phận chư hầu, mơ
màng tơ tưởng điều gì cho số phận dân tộc và đất nước Việt Nam dưới cái tên đẹp
đẽ vùng tự trị ...dưới bàn tay Trung
cộng?
Làm
sao có thể học hỏi được tiến bộ vượt bực của nước Tàu hầu cải tiến đất nước
mà vẫn giữ nguyên bản sắc, không cần phải trở thành người Tàu, và bằng cách nào, đối
phó với âm mưu bành trướng hung hăng ngạo mạn của họ ? Làm sao hiểu thái độ (đa
số ?) người dân và một (thiểu số ?) lãnh đạo Việt Nam : thần phục thiên triều,
thờ ơ với vận mạng đất nước ?
Vì
sao có đổi thay đột ngột này ?
Không tự vấn sao được khi phần lớn các nước trên
thế giới đều tiến bộ ít nhiều trong các lãnh vực khoa học, kinh tế, xã hội văn
hoá, và con người nói chung, tích tụ được những bài học lớn để áp dụng thích ứng
vào cuộc sống chung nhân loại trong lý tưởng hoà bình hạnh phúc mà VN và Tàu dường như đều ở bên ngoài giới
hạn lý tưởng bình thường đó. Tâm thức và lý trí con người Tàu và Việt có
tiến triển theo đà thế giới ? Những bài học năm xưa được lãnh hội ra sao?
Nếu
bị người Tàu đô hộ, dân mình, nước ta sẽ ra sao? Nhiều người quá cùng quẫn,
toan tính thà làm dân Hán giấy, nô lệ, chư hầu một nước Tàu giàu có, còn hơn
làm dân nước Việt tự do, nghèo nàn thiếu ăn. Có phải cuộc sống đầy bất công và
khó khăn thêm vào những thất vọng về hoà bình thống nhất đã khiến nhiều người
không còn lòng tin vào chính mình, vào dân tộc và tổ quốc ? Có phải ván cờ đã
xong, chẳng còn thế trận nào khác nữa?
Chúng
ta thử tìm nguyên nhân sự phát triển cùng âm mưu bành trướng của người Tàu và nhất
là suy tư về thân phận chư hầu hiện nay của các nước thuộc vùng tự trị Trung quốc.
Biết
mình biết người để tự thay đổi và tiến lên.
Sức
mạnh Hán tộc và âm mưu thôn tính lân bang
*
Đại quốc Trung Hoa và nước nhỏ Việt
Nam : hai ngàn năm lịch sử láng giềng.
Đứng trước quốc gia khổng lồ với diện tích 9,6 triệu
km² đông dân nhất (nhì?) trên thế giới với vận tốc phát triển chiếm hàng đầu về
quân sự, thương mại và cả về thành tích lấn chiếm lân bang, làm sao (ai) có thể
cả gan không “ hèn với giặc ” khi bị láng giềng này trấn áp ?
Hình 1 Bản đồ China đời nhà Đường
Không chỉ nước Việt mà rất nhiều nước trên thế giới ngày nay, trải thảm đỏ đón rước đại diện Tàu hòng giữ chân vị khách mua và bán rất “sộp” này[1].
Thật ra muốn biết
rõ hiện tại có lẽ phải đi ngược xa hơn nữa, khi cả hai còn sống trong tăm tối lệ
thuộc, để so sánh kết quả khác nhau của thay đổi ngoạn mục sau hơn vài trăm
năm, nhất là sau 40 năm trở lại đây : một bên lãnh thổ tăng gấp đôi diện tích
(hình 1), chế bom nguyên tử, cung cấp cho thế giới trên dưới 90 % hàng hoá đủ loại
từ đồ chơi quần áo giày dép trẻ con, người lớn, từ thức ăn chơi đến hoả tiễn, nhà máy (lò) điện nguyên tử, vệ tinh nhân tạo[2]; một
bên tuy thống nhất nhưng dần dà teo tóp các vùng biên giới (đất đai vùng biên giới phía bắc ?), mất đất mất rừng mất
biển, mất cả lòng (thương) người (và được người thương). Chuyện gì đã xảy ra
cho người Việt?
Hình 2 Bản đồ China thế kỷ 19
https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/7/7b/1861_Johnson_Map_of_China_-_Geographicus_-_China-johnson-1861.jpg
- Thành tựu lớn lao của Tàu : lấn chiếm đất đai
Vào thế kỷ 13, vua Möngke Khan xứ Mông Cổ sai em là Kubilai (Hốt Tất Liệt, cháu Thành Cát Tư Hãn Gengis Khan) sang đánh nước Tàu. Một đạo quân được đưa xuống phía nam để đánh chiếm Đại Lý rồi đánh luôn tới Đại Việt của vua Trần Thái Tông[3]. Sau khi lên ngôi và lập nên nhà Yuan (Nguyên), Kubilai chiếm nốt nam Tàu của nhà (Nam) Tống. Và từ đất mới chiếm này, với quân lính mới này, họ lại sửa soạn đánh Đại Việt[4]. Mấy lần đánh sang Đại Việt trong vòng vài năm (1285-1288), quân Tàu của triều đại Nguyên Mông này đều thất bại.
Người Tàu (không gốc
Hán) Zhu Yuan Zhang (Chu Nguyên Chương) lật đổ nhà Nguyên lập ra nhà Ming (Minh
- từ thế kỷ 14 đến 16), qua cuối thế kỷ đến lượt người Mãn Châu diệt nhà Ming lập thành nhà Qing (Thanh), cai trị nước Tàu.( hình 2)
Cái hận bị bọn Bắc địch
cai trị này chắc người gốc Hán thứ thiệt khó quên được.
Khi bị các đế quốc
phương Tây chia nhau ức hiếp (cuộc chiến tranh nha phiến) nhà Mãn Thanh phải ký
hoà ước cho họ vào Tàu buôn bán tại 5 cửa biển. Riêng nước Anh chiếm Hongkong.
Về sau đánh nhau với Anh, Pháp vì chuyện cấm đạo và buôn bán với phương Tây,
nhà Thanh phải nhường Pháp quyền bảo hộ nước An Nam (Hoà ước Thiên Tân
(Tien-Tsin) ký vào năm 1884 và 1885. Nước Việt
không phải triều cống Tàu nữa nhưng bị tròng vào cổ cái ách thực dân Pháp.
Năm 1911, lật đổ nhà Thanh, nước Trung Hoa dân quốc ra đời vào năm sau và từ 1927 bắt đầu cuộc nội chiến quốc - cộng Mao -Tchang (Tưởng) ( Mao Zedong - Tchang Kaï-chek) đến 1945 từ đó cho đến 1949 (khi Tưởng bỏ đại lục ra đảo Taiwan) được sử Tàu gọi là cuộc chiến tranh giải phóng.
Năm 1911, lật đổ nhà Thanh, nước Trung Hoa dân quốc ra đời vào năm sau và từ 1927 bắt đầu cuộc nội chiến quốc - cộng Mao -Tchang (Tưởng) ( Mao Zedong - Tchang Kaï-chek) đến 1945 từ đó cho đến 1949 (khi Tưởng bỏ đại lục ra đảo Taiwan) được sử Tàu gọi là cuộc chiến tranh giải phóng.
Chưa đầy 40 năm sau, nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã nhảy một bước dài và cao, tả xông hữu đột, dùng
bạo lực (và cổ sử ) đánh Ấn, giành đảo của Nga, chiếm Tibet, sát nhập Mông Cổ,[5] thổi
cuồng phong cách mạng văn hoá chính trị, nên chỉ cần vài (trăm ?) chục triệu người chết,
biên giới cũ từ thời cổ đại (nhà Đường chẳng hạn) từ phía Bắc sông Dương Tử, được
bung cột mốc ra tứ phía. Trả thù người đại Mông, Mãn, Tạng đã từng đô hộ tộc
Hán bấy lâu nay.
Sau Mao, Deng Xiao Ping cho phép dân Tàu dùng mèo trắng
mèo đen bắt chuột, nghĩa là bắt tay /bắt chước (ăn cắp) tư bản chứ không thèm độc
quyền giao du với cộng sản anh em. Bên cạnh những cải tổ về tổ chức kinh tế,
thương mại, khuyến khích địa phương làm giàu, kỹ nghệ nặng và các doanh nghiệp
nhà nước cũng phát triển nhanh chóng (bất
kể môi sinh, đạo lý mà “bọn tư bản” đã từng “gãy răng sứt mũi” tìm phương
cách sửa chữa tôn trọng trong thế kỷ vừa qua) khiến cho Trung cộng chỉ trong
vòng vài thập niên trở nên cường quốc kinh tế và quân sự nhất nhì trên thế giới.
Hàng trăm triệu phú và tỷ phú Tàu mua đủ thứ của thế giới : quặng mỏ, đồn điền
ruộng nho làm rượu, đại công ty thuộc mọi ngành nghề từ du lịch, thuốc men, mỹ
phẩm, y phục, (chơi/mua) đồ cổ, tranh cổ, lâu đài cổ, đến hội hoạ âm nhạc điện ảnh,
thể thao, đến kỹ nghệ nặng xe cộ máy
bay chiến hạm lò nguyên tử (hạt nhân).
Về văn hoá, du lịch họ
cũng làm thế giới kinh ngạc, thán phục[6],
người Tàu vực dậy ông Khổng Tử mà Mao đã chôn khi làm cuộc cách mạng văn hoá
hơn nửa thế kỷ trước. Họ xin lập viện nghiên cứu Nho học khắp nơi trong những
trao đổi/chưng bày văn hoá với các nước khác[7]
như một thứ áo mão hương xa mời gọi nhiều bí ẩn nhưng che đậy một ý đồ chinh phục...cũng
chẳng mới mẻ.
Thế là Mao, Deng đã xây xong một thứ vạn lý trường thành quanh các
vùng biên giới mới đông tây nam bắc để “ tự vệ, đề phòng ngoại bang xâm lăng ”
Bức tường này tạm thời chưa khép lại ở
phía nam nơi biên giới Việt Trung, con đường và cửa ngõ duy nhất cho Tàu tiếp tục mở rộng biên giới, bởi lòng tham của
Mao và con cháu[8], vì sự yếu kém của nước Việt ngày
nay.
Thật ra tuy có đổi thay ngoạn mục sau
cuộc chiến[9], nhờ dân số tăng, nhờ sức sống và
môi trường thanh bình, nhưng nước Việt luôn luôn nhỏ bé và yếu kém khác biệt về
mọi mặt so với Tàu. Lãnh thổ Việt ( khoảng 331000 km2) còn nhỏ hơn các tỉnh Tàu
cỡ trung bình như Vân Nam, Cam Túc..;dân
số cũng nhỏ bé, của cải làm ra theo đầu người chỉ hơn mươi nước Phi châu, chỉ
riêng con đường chính trị và lịch sử cận đại
rất giống Tàu :
* chiến tranh giải phóng khỏi tay đế quốc,
* cuộc nội chiến quốc cộng Bắc Nam[11], chết vài triệu người anh em ruột thịt[12] và 58 000 lính Mỹ ( và một số
nhỏ quân dân các nước tư bản bảo vệ miền Nam thời bấy giờ như Úc, Tân Tây Lan,
Đại (Nam) Hàn, Thái Lan và Phi Luật Tân...),
* áp dụng chủ nghĩa xã hội (theo định
hướng...tư bản, sự thật là kiểu tư bản đỏ vì tất cả quyền lực và quyền lợi nằm trong
tay đảng và đảng viên)
* theo đường lối tôn thờ cá nhân ( Hồ Chí Minh, Trường
Chinh, Lê Duẩn).
Tình hình bị lệ thuộc Tàu đến mức báo
động : người Tàu thống lĩnh (?) trăm sự
từ chính trị đến kinh tế, lũng đoạn xâm lấn mọi lãnh vực trong chiều hướng xấu
cho người Việt : chi phối các cuộc chuẩn bị chia ghế đại hội đảng, ký kết các
hiệp định, hiệp thương bất bình đẳng, tràn ngập hàng hoá đủ loại vừa lợi dụng danh nghĩa xuất ra hàng ra ngoài vừa lấn áp giết chết
thương mại địa phương, phá rừng lấy gỗ, làm những dự án với phí tổn cao nhưng
vô ích và mang tính chất phá hoại : đào cát lấp sông, xây xa lộ xuyên Trường
Sơn, xây phi trường, khai thác mỏ độc bauxite, xây những nhà máy (nhiệt điện chạy than hay nguyên tử với kỹ thuật lỗi thời nguy hiểm, tàn phá môi trường, tạo ra vùng kinh tế hay quân sự
trá hình nơi yếu điểm hay trọng điểm chiến lược ngoài tầm mắt của dân Việt, “ cải
tạo ” các đảo[14] (hình
3&4) chiếm đóng. Nơi thành phố họ mua đất đai, nhà cửa của người Việt. Đó là những dấu vết bên ngoài, bên trong là những tàn
phá nền tảng xã hội và văn hóa, truyền thống Việt qua những viện trợ, trao đổi
văn hoá và giáo dục có tính cách lũng đoạn[15]
Đến năm nay thì nhà nước Việt tuyên bố
hết tiền, sắp vỡ nợ. Đồng bằng nhiễm mặn vì Cửu Long đã cạn dòng bởi hằng hà sa
số con đập người Tàu xây chận nơi thưọng nguồn. Màn kịch sau cùng để nhà Xi giả
vờ ra tay nghĩa hiệp (cho mưọn tiền trả nợ trả lương, mở đập nước ban ơn!) hạ xuống
nhát dao/phát súng ân huệ? Kết quả kinh hoàng cho người Việt : tài nguyên cạn
kiệt, người tài tận tuyệt, văn hoá tan tành, lịch sử là con số không.
Hình 3&4 : Tàu đòi đường lưỡi bò và vùng họ
lấn chiếm đảo Việt trên biển từ 1974- 2009.
(Tài liệu wikipedia)
* Phản ứng trước tham vọng ngạo mạn Đại Hán và
thái độ nhu nhược khó hiểu của lãnh đạo Việt
Thật ra âm mưu bành trướng về phương nam để thực hiện tham vọng đế quốc này đã
được Việt Nam chính thức lớn tiếng tố cáo sau khi quân Tàu đồng loạt tấn công
vào các tỉnh biên giới Việt Nam vào tháng 2 năm 1979. Vừa quân lính vừa dân
công hơn nửa triệu, họ tràn vào đánh, giết dân Việt, san bằng triệt để và có hệ
thống các cơ sở văn hoá xã hội trong thành phố. Các tài liệu phản đối cuộc tấn
công này nay vẫn còn được lưu hành tuy lén lút vì chính quyền Việt cấm đoán.
Cuộc xâm lăng đó, mỉa mai thay, đem một
chút tin tưởng hão huyền vào sự độc lập tự chủ của nước Việt Nam, vì theo kinh
nghiệm lịch sử miền Nam ngày xưa, dù
đường ngoại giao tốt đẹp với Đài Loan, Hồng
Kông, người Việt (Nam) vẫn luôn tự cảnh báo dè chừng Trung Cộng[16].
Nhất là khi Trung Cộng tiến chiếm Hoàng Sa năm 1974. Năm 1979 có cả những người
trẻ Pháp gốc Việt trong Hội người Việt tại
Pháp ghi tên tình nguyện về nước đầu
quân đánh giặc bành trướng!.
Kháng cự dũng cảm, mạnh mẽ lần xâm lăng
thứ 14 này[17],
phải chăng là một chút tự hào hay sức mạnh dân tộc còn lưu lại, không lẽ là cuộc
chống trả sau cùng của tộc Việt ?
Hơn nửa thế kỷ trước, vào tháng 9 năm 1949,
khi đọc diễn văn chuẩn bị xua quân tiến chiếmTibet, Mao Zedong hùng hồn (răn đe thế giới) : chúng ta, tám trăm triệu
(800 000 000) người “quyết tâm”. Khi đó ông ta cũng đồng thời
bình định Nội Mông, Tân Cương và tiêu diệt cả tàn dư nguỵ gốc Tàu thuộc quốc dân đảng, tư sản mại bản, phản động
trong nước Tàu. Cũng như lăm le nuốt Taiwan.
Giờ
đây, tuy là một trong 5 nước cộng sản vỏn vẹn trên thế giới nhưng thế giới sẽ
tính sao với một tỷ rưỡi người ( Tàu gốc Hán ?![18]) quyết tâm, nhất trí Hán
hoá thế giới ?
Thật
vậy, công việc bình định và Hán hoá vừa xong tại các vùng đất mới, ông Xi
Jingping kế tục Mao, vừa cho phép toàn thể nhân dân “đẻ thêm đứa nữa”[19], chưa tính đến đội quân
trong các con ngựa thành Troie khả dĩ trên khắp địa cầu, thế giới này sẽ ra sao
nếu họ tiếp tục nhất trí quyết tâm với Xi, nên cần nhớ đến lời Mao nói trên lần nữa.
Tại
sao không, nếu tộc Hán “hoà gien “ (với) 6 tỉ người trên địa cầu này để cùng sống
đẹp, sống nhân hoà thì chắc ai cũng đồng thuận, khổ nỗi, sự thật lịch sử, các
hình ảnh phóng sự về đất nước và con người của xứ vĩ đại này không đem lại ước
ao mong được như họ...
Thời đại mới phương cách mới. Trung Quốc muốn mở rộng vùng ảnh hưởng xuống
Đông Nam Á, nơi sinh sống lập quốc của hậu duệ Trăm Việt cổ đại, bằng những thủ
đoạn khác nhau, từ đường hoàng hợp tác kinh tế, ký kết kẻ cả anh em viện trợ,
cổ võ hợp tác nghiên cứu giáo dục văn hóa, đẩy mạnh thương mại (một chiều), làm
đường xá, khai thác khoáng sản, năng lượng, cấy dân cư, đề xướng cư dân lân
bang đi lại không hộ chiếu, cho đến thủ đoạn then chốt là mua chuộc nhóm lãnh
đạo chính trị của các nước này, nhất là Việt Nam theo bằng chứng và lời đồn đại
khả tín[20].
Sau khi đưa củ cà rốt (bánh bao), ông Xi (như
ông Putin) hươi cây gậy (thiết bảng) cho thế giới xem: quân đội nhân dân Tàu diễn
hành với trang bị thiết bị vũ khí tối tân hiện đại, tất cả sẵn sàng chiến đấu “
để tự vệ” với : đầu đạn nguyên tử, hoả
tiễn liên lục địa, chiến hạm, tàu ngầm và một đội quân mấy (chục?) triệu, anh
nào cũng đánh xáp lá cà giỏi như Jackie Chan, Jet Li (?!). Chưa kể bom nguyên tử[21] Rõ là sức mạnh vô địch : Quân sự, kinh tế,
chính trị, văn hoá hùng mạnh.
Trước
đó vài mươi năm, quan trọng nhất là năm
1974 và 1988, Mao, Deng chỉ cần giết (74+65 người) hải quân Việt, chiếm được
Hoàng Sa, và phần lớn Trường Sa của Việt Nam trong chớp mắt, bây giờ Xi với đội
quân khủng khiếp này, mà chỉ bắn súng nước, cắt cáp, cướp máy ghe đánh cá, giết
và bắt ngư dân đòi tiền chuộc, vờn ta như mèo vờn chuột. Tại sao ? Có phải chỉ vì Tàu sợ Mỹ sợ Nhật sợ thế giới ? Hay chỉ vì VN đã nằm trong tay họ ? Thật âm mưu cực kỳ đáng sợ. Giá bán của đất nước bốn năm ngàn năm lịch sử, rẻ rúng đến thế ư ?. Quả là sức mạnh vô địch ! Rồi thì sao ?
Làm sao giải thích được tình trạng từ một
nước anh hùng nhờ đảng cộng sản lãnh đạo « nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng » thế mà chỉ sau 40 năm phục
vụ đồng bào, nay lại « hèn với giặc, ác với dân », từ quyết tâm “đốt được cả dãy Trường Sơn” mà giờ đây
không cất nổi tiếng hô « giặc vào nhà », kỵ cả tên gọi giặc? Điều
gì đã xảy ra? Chỉ sau hai mươi lăm năm thôi, chúng ta như ông đồ Vũ Đình Liên,
ngậm hờn hỏi chiến sĩ nhân tài thiên niên cũ hồn bây giờ ở đâu, để cho hậu duệ Đại Việt của Trăm Việt
trên vùng định mệnh[22] tiếp tục bị truy đuổi đến hàng chục
thế kỷ sau, đến tận cùng biển đảo? Chế độ này đã làm gì?
Vì sao không dám công bố
mật ước và những lời cầu xin được làm một tỉnh hay vùng tự trị của Tàu cộng, sợ
gì mà không hé nửa lời cho dân biết?
Vì sao đàn áp triệt để
mọi mầm mống tố cáo Trung Quốc xâm lược?
Khi
có người nhìn xa thấy rộng, từ hàng chục năm về trước đã nào báo động mất đảo
HS-TS-VN, nào kêu gọi nhân dân tẩy chay thế vận hội Tàu, nào phản đối Tàu tuôn
vô độ hàng hoá đủ loại, vô bổ, độc hại, mua bán bất chính, và còn ngang ngược
đem giàn khoan cắm vào hải phận Việt Nam (chắc chắn không phải chỉ để) tìm dầu
khí. Để rồi những người yêu nước ấy bị công an Việt đàn áp bắt bớ. Từ trí thức
như ký giả, luật sư, bác sĩ đến thanh niên học sinh thường dân biểu tình ôn hoà
chống Trung cộng, thậm chí dân kêu oan vì mất đất ... đều bị nhà cầm quyền Việt
trấn áp, giam cầm trong sự thờ ơ lãnh đạm của nhân dân cũng như các cơ quan báo
chí nhà nước.
Có
phải vì (bị) đảng từ lâu giành giữ độc quyền trên mọi lãnh vực, cho nên dân
chúng thờ ơ với chuyện sinh tử cực kỳ của đất nước? Có phải chỉ vì dân đã kiệt
sức vì cuộc mưu sinh khó khăn, đã vô vọng trước chính sách phân biệt, kỳ thị,
phân chia? Có phải vì Trung Cộng đã mua
“trọn gói” các lãnh đạo Việt?
Các
hạng lãnh đạo địa phương chỉ còn cách chảy tuôn vào những ngõ hẹp được mở ra
theo mật ước, hàng ước, lợi dụng chính sách thương mại hay viện trợ quốc tế hay
giản dị hơn : tạo cơ hội cho cắc ké kỳ nhông chia nhau vụn bánh : bóc lột sức
lao động, lợi dụng bàn tay thanh niên, và nhan sắc phụ nữ.
Nhân
dân hết nước, hết cách chỉ có thể ùa nhau đi làm dâu, đi lao động, trao đổi học
tập đàn anh Tàu, ngoan ngoãn, choá mắt trước đất nước bao la giàu có này cho dù
nó mắng mình con hoang, vô ơn bạc nghĩa. Cho dù nó bôi bác chiến thắng và anh
hùng, tiết lộ (sự thật?) về chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 và Sài Gòn 1975, về
cả nguồn gốc Tàu (khả dĩ?) của lãnh tụ Việt.
- Tuy nhân dân vất vả xoay sở bươn chải để sống
còn...
Đến
khi anh em Đoàn Văn Vươn, cựu chiến binh quân đội nhân dân VN dân chủ cộng hoà,
nổ súng (tự chế) bắn vào đội quân đi cướp đất phá trang trại... Đến khi có các
tổ chức nhân quyền ngoại quốc lên tiếng... Đến khi có không ảnh Mỹ cho thấy Tàu
xây căn cứ, sân bay trên các đảo chiếm đóng, vận chuyển lính cải trang làm ngư
phủ...bắt, giết, cướp cả dân chài Việt thì ngài Thủ tướng mới đọc diễn văn đem
chút hy vọng viển vông rồi cũng ngài tiếp tục cho công an đàn áp, bắt bớ. Ngài
còn tuyên bố quyết tâm giữ gìn tình láng giềng hữu hảo lo giải quyết song
phương như ông to nào đó cho biết : biển Đông phẳng lặng hai kinh vững vàng [23].
Trong
khi đó người Tàu tiếp tục ra vào nước Việt như vào chỗ không người, lãnh hải,
không phận, trên diễn đàn quốc tế, họ ngạo mạn tiến tới. Vừa ăn cướp vừa la
làng
Còn
sao nữa : sơn hà Việt Nam nguy biến ! Nghe cải lương và nhàm tai (phản động) với người ham thân phận chư hầu
hay phù Tàu, nhưng đó là sự thật theo cái nhìn thuần Việt
Tiếng
dân thật nhỏ, thật yếu ớt, còn triều đình thì toàn là hình tướng Lê Chiêu Thống,
Trần Di Ái, Trần Nhật Hiệu...!
Không lo, không sợ sao được khi ngườiViệt còn
bị duy trì mãi trong tình hận phân chia quốc nội / hải ngoại, Nam/ Bắc, không
nhìn thấy hậu ý gian tham của kẻ thù truyền kiếp.
Không
buồn sao được khi nghe thấy dồn dập những tiếng kêu của Bùi Thị Minh Hằng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Phương Uyên, Thanh Nghiên,
Mẹ Nấm, Thục Vy, Đoan Trang, Trần Thị Hài, Cấn Thị Thêu, ... như những đóa hoa
giữa một rừng gươm ! Không lo sao được khi thấy Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn
Đài, Việt Khang[24],
....bị tù chỉ vì nói lên mối ưu tư, đề nghị một chương trình cho đất nước tiến
lên. Và bao nhiêu người khác bị bầm dập tù đày chỉ vì muốn vẫn là con cháu Việt
tộc còn nhớ ơn tiên tổ.
- ...lại thêm hoang mang lo sợ...
Không
sợ sao được khi ông Xi Jingping được đảng csVN trải thảm đỏ rước vào quốc hội
người Việt, đọc một bài diễn văn[25] cho mấy trăm dân biểu
do đảng cử (đại diện 3 triệu đảng viên) và họ đã nhất trí đứng lên vỗ tay
hoan hô nhà Xi như đảng biểu, không một ai ngồi yên hay dám bỏ ra ngoài tỏ ý phản
đối (như hy vọng của vài người Việt mơ màng viển vông). Bỏ ra ngoài phòng họp để
bày tỏ sự bất bình hay trái ý là điều thường thấy tại nghị viện đa số các nước
dân chủ trên thế giới. Nhất trí hoan hô
những lời giả dối và ngạo mạn. Hai tiếng nhất trí lý tưởng và lạ lùng, thường trực này chỉ có ở đất nước độc
tài, cộng sản, vào những lúc nguy nan.
Hoan
hô ông Xi vì ông ta trân trọng nhắc nhở nhân dân Việt Nam trong bài diễn văn,
phải thực hiện các khẩu hiệu 16 vàng, 4 tốt, cũng như các bài diễn văn của các
ông Tàu khác Jiāng Zémín, Hú Jǐntāo (trước đây tại Thành Đô ) giao cho các ông Đỗ Mười,
Lê Đức Anh, Nguyễn văn Linh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh...mang về VN khuyến dụ
nhân dân, nhưng điều đặc biệt là ở đây ông Xi pha trộn thêm nước...đường (thi và
...Mao tập lẫn Hồ thi[26] : cùng nắm tay nhau, nhìn
về một phía...Giải quyết song phương nghĩa là theo một hướng mà thôi, hướng của
kẻ mạnh...) cho nên tuy vẫn là các khẩu hiệu nhàm chán sắt đá kẻ cả, vẫn là cuộc
ép duyên thô bạo, mà con mắt, lỗ tai Việt (lãnh tụ, đại biểu đảng viên ?) thoạt
đọc, thoạt nghe, lại ra nhiều du dương, lắm ngọt ngào, hứa hẹn. Ngọt ngào, hứa
hẹn, ru ngủ đến đáng ngờ. Qua lại thăm viếng...
học tập, trao đổi...bình đẳng đến ớn lạnh xương sống[27]. Nếu là người Mỹ, Pháp
hay Thụy Điển, Hoà Lan, Nhật Bản mời mọc hứa hẹn như vậy, cam đoan dân Việt
xuôi tay chân mà đi theo, còn ở đây với hậu duệ Trọng Thuỷ, con cháu Hùng Vương
không thể không bàng hoàng e ngại, ngờ vực. Không sợ sao? Không buồn sao?
Ngài
sang tận đất Việt nhắc nhở. Lời nhắc nhở khuyến dụ sau cùng vì cam kết đáo hạn
hay vì ngài muốn nhắc lãnh đạo Việt mau mau diễn tập màn kịch sau cùng?
Hay
chỉ vì vua Tàu này muốn nhanh chân hơn tổng thống Obama? Kế hoạch gì đây hay đoạn
kết màn vờn chuột sau cùng? Kịch bản lớp lang soạn trước, ve vuốt dân Việt như
con sói già và cô bé quàng khăn đỏ? Nhiều
câu hỏi đặt ra cũng vì thật sự có người e tộc Hán mượn đường (Việt) chống xâm
lăng (Mỹ?).
Thật vậy, trong áng văn mà người Việt có thể
gọi là bài ru điệu bắc (...cục), ông
Xi thiết tha hùng hồn gom Tàu và Việt vào một chủ (từ) chung cho vô số cận cảnh,
viễn cảnh, một Trung quốc-Việt Nam, hai Trung quốc-Việt Nam, gắn bó thân thiện,
như thể nước Việt to bằng nước Nga, nước Mỹ, hay Ấn Độ.
Tàu
-Việt song hành NHƯ MỘT NƯỚC, trí tuệ
dày, tri thức cao (chắc cao to cỡ Thiên San, Hoàng San), đồng lòng lên đỉnh
Thái Sơn nhìn xuống : “một con đường một
vành đai ”, “ hai hành lang, một vùng
kinh tế ” : vòng đai biên giới mới từ
Tây Tạng đến lưỡi bò biển Đông?. ngàn
vàng để mua láng giềng [28] mở rộng một thế giới...Hán. Người ngây thơ sẽ phỗng mũi và tin sái
cổ.
Nhưng
nước Việt không sao sánh vai ngang hàng với các nước kể trên, về nhiều mặt. Nước
Việt chỉ có một thứ của cực kỳ quý hiếm đáp ứng ước mơ đại Hán : cửa ngõ nhìn
ra biển, con đường đưa hàng và người Tàu tràn ngập Đông Nam Á và thế giới, để
người Tàu dễ chiếm lĩnh vai trò chủ nhân mọi châu mọi đại dương trên trái đất
này. Ham tiếng thì ông Xi cho tiếng và dân Hán lấy cái miếng. Chữ vàng chữ tốt
và vài tỉ đồng bọt bèo để công ty làm đường hạng bét của TQ sang xây dựng (một
cách phá hoại). Người đã ăn tiền sẽ gật gù khám phá thế là không sướng sao, tiếp
tục ngậm miệng ăn tiền, làm tòng phạm vung vãi chút vụn bánh mua chuộc, dụ dỗ
những hòn gạch tiếp tục lăn lưng xây vạn lý trường thành xâm lấn.
Láng
giềng gần gũi qua lại, tay trong tay thành một khối, đến năm 2020, sau các chi
tiết hai bên cam kết thi hành[29], Xi sẽ bắt tên láng giềng
hảo ngọt, cựu chư hầu/anh em không cùng gốc, không cùng gien “hoà bình” này ký
một thứ hiệp ước rõ ràng, khác với các mật ước trước đây, một thứ hiệp định kiểu
Tàu –Tây Tạng hơn nửa thế kỷ trước[30], giờ đây sẽ giúp tộc Hán
mở rộng thêm một phần tư lãnh thổ nữa về vùng biển.
Vùng
biển Đông sẽ là một thứ Đông (Tây) Tạng tự trị , giúp Tàu mở rộng thế giới Hán ra
toàn vùng đông Nam Á, trị giá tương đương với Tây Tạng. Viễn ảnh kỷ nguyên mới
này quả thật là một cục đường, một cái bánh khá bự cho người hảo ngọt. Dân Việt
ngoài đảng chưa nếm nhưng lắm người đã nghe bùi tai, miệng lưỡi, tim gan chưa
chi đã thấm thía ngất ngây ...hương vị ảo. Nhưng tất cả chúng ta không phải là
người hảo ngọt, ngây thơ hay là những lãnh tụ (không được dân bầu) hiện tại[31].
Cho
nên không phải đợi ông Xi hùng hồn du dương vừa ru vừa doạ, xin nhắc lại từ hai
mươi năm trước đã có những tiếng kêu sơn hà nguy biến, lẻ loi nhưng vang dội.
Tàu đã chiếm rừng chiếm đảo, đã xây đồn đấp lũy cấy gián điệp trong lòng đất Việt
Nam, cấy sinh tử phù trong lòng người Việt, cài bùa ngải, thuốc độc trong thức
ăn, xây nhà máy huỷ hoại môi trường sống cư dân lân cận, thì chuyện diễn văn
nhiều cục nhiều hòn này chỉ là hoả mù che mắt thế gian, một lời thách thức ngạo
mạn, coi mấy chục triệu người Việt như không có. Chỉ vài mươi năm nữa thôi, chúng
mày sẽ trở thành thiểu số ngay chính tại quê hương của chúng mày, chúng ta là một
là thế đó. Cùng nhau sinh sôi nẩy nở, cái gien Hán hoà bình !
-... bắt đầu định thần
và lắng nghe, xích lại gần nhau...
Bloggers
thường dân và trí thức trong nhiều ngành văn hoá, học thuật trong ngoài nước Việt,
dù không ai cử, không ai bầu, không hảo ngọt, đã vạch rõ cái hậu vị dụ dỗ răn
đe. Vừa ra khỏi đất Việt, Xi đã lấy lại giọng ngang ngược. Thì ra cái cục to của
ông Tàu này càng lộ thêm chân tướng ngạo mạn gian hùng khi ông ta khiêng nó qua
các nước anh em (thứ thiệt?) của mình. Với anh em Đài Loan, Tân Gia Ba, ông Xi
không ngần ngại khẳng định: biển Đông là của ta, tức của giống Hán chúng ta,
như một hứa hẹn chia nhau bánh (thiệt), như một lời chửi xéo, như một tiếng răn
đe gởi tên láng giềng hữu hảo mà đã hơn một lần phản bội khó tin[32].
Nếu
Trường Sa Hoàng Sa là của ông Xi vào thời cổ đại thì thiên hạ sẽ hùa theo thừa
thắng xông lên đòi nước Mỹ cho nước... Anh;
Brésil cho Portugal; Quảng Đông, Quảng Tây cho Nam Việt, Tây Tạng cho
dân Tibet, Ning Xia cho dân Tây Hạ, Tân Cương cho dân Uyghur ? Và tại sao
không, người Châu Mỹ...nên đòi về cho họ cả thế giới này, từ châu Phi qua châu
Âu và sang đông, trung, nam Á, chỉ mới vài mươi ngàn năm chứ mấy! Của tiên tổ họ
để lại dấu chân, xương xẩu từ thời cổ đại thứ thiệt[33]!. A, thì ra đại cục này còn lâu mới là cục đường.
Giúp
xây cầu làm đường tại Việt Nam hay bất cứ nước nghèo nào tại Phi Châu,
Pakistan, Bangladesh...là giúp (hoặc đầu tư) phương tiện chuyên chở hàng hoá
buôn bán. Thế kỷ toàn cầu hoá, thì khai thác đường biển, đường hàng không, đường
bộ, cải cách truyền thông, luật lệ buôn bán, mậu dịch, trao đổi văn hoá là việc
phải làm cho bất kỳ quốc gia nào muốn mở mang và sống còn, nhưng với kẻ mạnh
thì người Tàu thương thuyết đa phương nhiều chiều, với đứa yếu thì khi doạ nạt
khi mềm dẻo dụ dỗ thương thuyết song phương. Rõ ràng họ chỉ muốn lấy phần lợi cả
về mình, ngạo mạn, tham lam, chèn ép nước bé, chủ trương lấy thịt đè người,
dương oai sức mạnh tiền tệ và bạo lực quân sự, đi ngược đạo lý và nhân cách con
người[34].
Của
đáng tội, thật ra như đã nhắc trên đây, các bloggers (và cả một ông nghị trong
số 500 người vỗ tay) đã cho thấy màn ru điệu bắc này cũng có vài nốt trật đường
rầy, tố cáo dã tâm của chủ nó[35]: đòi đãi ông Xi gỏi cá Bạch
Đằng hay dãi yến Trường Sa với lời cảnh cáo coi chừng nhé : chui ống đồng, mang
số phận của Vương Thông, Liễu Thăng, Tô Định, Thoát Hoan...
Nhìn
những im lặng khấu đầu của các cột trụ tự giành nhiệm vụ bảo vệ quê hương, dẫn
dắt nhân dân, lắm lúc, dân hoài nghi
lãnh đạo mình đang diễn màn Câu Tiễn. Không phải sao khi Lê Duẩn nói ta đánh
đây là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc...thật sự câu nói đầy đủ của ông ta là ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc
và cho nhân loại, cho xã hội chủ nghĩa....và sau đó chính ông ta cũng đã
nói[36] điều ngược lại ? Cái lưỡi
không xương hay Câu Tiễn thật sự đã trở thành Lê Chiêu Thống ?
Cho
dù ngay từ khi đi xuyên qua Hà Nội (chạy /chẩu hơi lẹ làng chứ không chậm chạp
thẩn thơ bát phố bắt tay dân, ăn phở như Clinton năm nào) trong 21 tiếng đại
bác, có thể họ Xi không thấy được tận mắt sự “vô cảm” của nhân dân thủ đô đối với
ông ta (và đối với cả tiền đồ dân tộc). Không thấy cả hành động không nương tay
của những người “anh là ai mà sao lại
đánh tôi ” để ông ta có thể cất giọng hát ru điệu bắc...
Tôi ở
đây là những (vài trăm?) người cả gan xuống đường hô lớn No Xi, No U. Cả hai miền
Nam Bắc chỉ bấy nhiêu anh hùng đã oai dũng cất tiếng kêu, tự triệu tập hội nghị
Diên Hồng không có vua[37]. Bô lão, thanh thiếu niên
đây rồi. Còn triều đình ở đâu ? Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Trần Khánh Dư,
Trần Bình Trọng là ai ? Còn hy vọng nào không?
-...rồi hy vọng sẽ vươn
lên...
Chuyện một ông giáo sư (dỏm?) nửa Tàu nửa Việt bị chê cười nhạo báng trên mạng,
vì đã bỏ họ Việt lấy họ Tàu, vì viết câu đối nửa Tàu nửa Việt, nửa “sáng tác” nửa
vay mượn, viết tự điển Việt sai be bét, bỏ áo the thâm choàng cái áo gấm Tàu đỏ
lòm khiến vô số người trong đó có tác giả bài này, tin rằng vận mạng Việt chưa
đến hồi tận tuyệt.
Làm
sao mà không đau lòng xót xa khi thấy những cô gái Việt đẹp đẽ mảnh mai rúm ró
e dè bên những anh Tàu mập mạp (cho dù là Tàu Đài Loan hay Đại Hàn tròn trịa,
cho dù là Nam Hàn hay Singapore) ? Nhưng hy vọng cũng nhóm lên khi nghe thấy
đó đây những lời kêu cứu, cảnh tỉnh, cứu hộ, những trường hợp ngoại lệ xác nhận
tình trạng chung.
Làm
sao không xấu hổ, thương hại khi có những người Việt đủ lứa tuổi, đủ thành phần
xã hội, từ công nhân đến giáo sư, từ con ông cháu cha đến du học sinh, từ phó
thường dân đến quan ngoại giao đi ăn cắp ở xứ người hay vi phạm pháp luật sở tại
một cách hồn nhiên đến trắng trợn. Ăn cắp từ hũ kem, cây son đến hoá chất, vàng
bạc kim cương, sừng tê giác. Buôn lậu thuốc lá, thuốc men làm giả, giết người,
buôn người, ăn trộm chó mèo ăn thịt, trồng/ bán cần sa[38] v...v...Nhân cách con người,
lương tâm, giấy rách giữ lấy lề có hay không, nói chi đến tự hào dân tộc ?
Nhưng khắp nơi cũng có những tài năng nổi bật như một chút phân bua, giải lý hầu
kéo lại tẻo teo cân bằng, cũng là tia hy vọng le lói giữa bóng đêm bi phẫn.
Một
ông tướng (lai Tàu?) bị răn đe (mất tích một thời gian, rồi trở về với lời đồn
bị thay tim, thay não?) vì đã “ âu lo” cho một nước Tàu không được dân Việt mến
yêu; việc này khiến một số lớn trong chúng ta có thể hát bài “tôi ơi đừng tuyệt
vọng”.
Những
người trẻ và không trẻ bị nhà cầm quyền bắt giam vì đã dám hô lớn Trường Sa
Hoàng Sa là của Việt Nam, dám đòi “ Tàu khựa cút đi “, và vài người được thả ra sau những ngày tháng
bị giam cầm đày đoạ, tuy khoảng phân nửa sau đó bị chết vì kiệt sức (hay vì bị
đầu độc) phân nửa bị tạm tha hoặc đày ra ngoại quốc, những người trẻ tuổi dân thường hay con cháu công thần dám kêu lên
SƠN HÀ NGUY BIẾN khiến ló dạng một ánh sáng cuối đường hầm/ nổi lên một cơn gió
lạc quan khiến cho vài (trăm? ngàn? triệu?) trong đa số thầm lặng đã mơ hồ ấm
lên lạc quan và hy vọng.
Trước
đây nhà cầm quyền giật thư, đạp xe, vu oan tội hình sự, gây tai nạn chết người,
rồi bây giờ chỉ biết ném phân, liệng đá, vứt mắm thối vào nhà người phản kháng,
bây giờ thuê du côn (Tàu?) đánh chém người đòi tự do, dân chủ. Quấy phá đám
tang, đám cưới nơi tư gia các vị tù nhân lưong tâm hay nhà dân chủ, thậm chí ôm
nhau nhảy điệu Tàu để làm rối loạn lễ kỷ niệm anh hùng Hoàng Sa Trường Sa, bọn
khuấy phá này chỉ có thể là ...gốc Hán, mới không tôn trọng lễ nghĩa ttruyền thống
Việt. Càng ngày càng xuống ...nước, phải
chăng là dấu hiệu ...hết tiền của nhà nước ? Không thể hy vọng được sao ?
Có
những người Việt 70 đến 90 tuổi, trí thức hay phó thường dân, thất phu hay đại
trượng phu, kẻ sĩ, nghệ sĩ, từng là công thần, là nguỵ dân/ ngụy quyên /“ phản
động “, đã từng trước đây say men chiến thắng hay đớn đau chịu đựng chiến tranh
thảm khốc, từng trải qua các cuộc vượt biên kinh hoàng/,đổi đời oan ức và cho
dù giờ đây sống đời an lành hiện tại trong nước cũng như ngoài nước Việt, vẫn
không ngần ngại nói/ viết/ gởi gấm tiếng kêu sau cùng trong những bức tâm thư/
hồi ký, trả sự thật cho lịch sử....Họ nói lên tấm lòng tha thiết với quá khứ và
với tương lai quê hương đất tổ. Ai trong chúng ta có thể không rưng rưng cảm động
trước những bô (beaux) lão[39] này, nghe khơi dậy niềm
tin nơi đồng bào/dân tộc?.
Tuy các cảm nhận và phản ứng có khác nhau về
biến chuyển tình hình đất nước nhưng các đợt sóng ngầm, những cơn gió này sẽ
làm thành ngọn sóng thần đổi mới cuộc sống (đmcs :-) ) và thành cơn bão quét
xâm lăng, đưa đất nước ra khỏi vực thẳm diệt vong.
Bài này là một gợn sóng bé nhỏ, một chút gió
đìu hiu mong muốn góp phần trách nhiệm.
Dĩ
nhiên “ bên kia bờ ảo vọng”, vô số những người (thực dụng? nhìn xa?) vội vàng
đi học chữ Tàu, cho con cái đi du học bên Tàu, và có người đổi họ Tàu, như nhà
thông thái dỏm kể trên. Lắm người không những chỉ muốn “ nhập Hán ” mà còn dám
nối giáo cho giặc, làm gián điệp, làm nội tuyến, dám tin tưởng rằng người Tàu
là tổ tiên người Việt, trở về mái nhà xưa là châu về hiệp phố bởi vì sử đã chẳng
ghi Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ cháu Đế Lai, người Tàu[40]?. Bởi vì chẳng lẽ không
có bàn tay Tàu trong ý định muốn xoá (đi môn) lịch sử trong chương trình giáo dục,
nghĩa là bỏ những trang sử nhắc nhở rằng người Việt không có gốc Hán, nhắc nhở
rằng người Việt đã kháng cự giặc Tàu suốt mấy ngàn năm, đã trường kỳ khẳng định
sắc tộc riêng với vùng đất vùng trời mình sống từ bấy lâu nay?
Sự sùng bái thiên triều này, cha ông ta
cũng đã có từ xưa nhưng luôn giữ được khoảng cách tự trọng. Chuyện gì đã xảy ra
? Ta mất gì ? Còn gì ? Làm sao qua được cơn nguy thập tử nhất sinh này ? Nhắc ai xin gởi đôi câu, đừng mê số kiếp chư
hầu Hán nô.
Đừng ham thân phận chư hầu
Tấm
gương Tạng -Hồi -Mông -Mãn trong các vùng tự trị Trung cộng
Các cường quốc khi xâm lăng nước nhỏ và nghèo
trong thế kỷ 16 đến 20 thường dùng chiêu bài : Mượn đường buôn bán, thám hiểm,
đem văn minh văn hoá tiến bộ, phát triển tôn giáo, nhưng mục đích tối hậu chẳng
hề khác nhau từ Âu sang Á tới Mỹ [41] : các đế chế xưa Hoà Lan,
Tây Ban Nha, Pháp, Anh...
Hình
5 : Bản đồ Tàu đời nhà Qing (Thanh) do Pháp vẽ năm 1735.
cướp tài nguyên, dầu hoả, vị trí chiến lược, hải
cảng bán buôn giao dịch. Nhưng hai thế chiến đã xảy ra để họ điều hoà vị thế và
chia nhau chiến lợi phẩm trong chừng mực nào đó. Đồng thời những ánh sáng lương
tâm và tâm thức, nhân cách con người cũng trưởng thành sửa đổi...
Riêng mưu đồ bành trướng có từ thời...cổ đại của
tộc Hán, ở thế kỷ 21, với hành trang chế độ cộng sản, tuy chế độ này là hậu quả
của chủ nghĩa tư bản đế quốc, vẫn sống hùng sống mạnh và cũng chẳng đưa ra bài
bản gì mới hơn : Giải phóng ra khỏi tay xâm lăng. Mượn đường đánh kẻ thù, giúp
đỡ, hứa hẹn mang lại văn minh, cho
phép tự do tôn giáo, tôn trọng bản sắc
văn hoá. Ý định tốt đẹp hữu hảo này
thật ra cũng bởi tại láng giềng tuy nhu nhược, kém cỏi, nhưng lại có đất rộng,
lắm tài nguyên, quặng mỏ, lại thêm dân thưa, không thể tự vệ.
Các
điểm trên là chính sách nước Tàu tuyên bố và ghi rõ trên giấy trắng mực đen
dành cho các vùng tự trị Tibet, Hồi (Tân Cương), Mãn Châu, Mông Cổ và Ninh Hạ
mà đa số bị Tàu chính thức hoá (thành vùng tự trị) ngay sau đệ nhị thế chiến.
Người
Tàu áp đặt chánh sách Hán hoá khắt khe trong thời gian đầu tại các nước này,
tàn sát tiêu diệt kẻ chống đối, vô hiệu hoá các tiềm lực phản kháng. Dân gốc
Hán, đủ loại đủ cỡ tràn vào đè bẹp dân tộc vùng tự trị. Một số nhỏ dân bản địa
được o bế, dụ dỗ, cho hưởng quyền lợi, bổng lộc để tiếp tay người Hán bình định
đối kháng, có thể chiếm giữ những địa vị quan trọng về ngoại giao, quân sự,
kinh tế, nhưng cho dù địa vị có cao sang quan trọng đến đâu cũng vẫn thua kém
dân Tàu gốc Hán một bậc. Kết quả nhãn tiền hiển nhiên là đa số này quên hết
cội nguồn, chỉ nói được một thứ tiếng Tàu chính thống vào bốn mươi, năm mươi,
sáu mươi năm sau. Và tuyệt đại đa số thường
dân bản địa được khuyến khích giúp đỡ để học...nghề tay chân trong nông nghiệp,
công nghiệp, họ được khuyến khích (thật ra bị ép buộc) làm lụng nghề tay chân
hơn sử dụng trí óc học hành thật nhiều, thật sâu. Lo tất bật kiếm sống thì đầu
óc, sức lực còn chỗ đâu mà biết lịch sử nghìn năm xưa và đấu tranh đòi hỏi quyền
bình đẳng.
Khi
Mao, Deng (XiaoPing), Xi (JingPing) giả vờ hay thật sự nới tay (cho
thêm quyền tự trị, ngôn ngữ, đi lại...) thì dân Tibet, Tân Cương, Mông Cổ...đã
trở thành thiểu số trong chính quê hương mình; những thế hệ trẻ được Bắc Kinh
nuôi dưỡng giáo dục từ nửa thế kỷ về trước, lần lượt trở lại quê cha đất mẹ
(như/với bọn hồng vệ binh Hán và em cháu tương đương) đốt chùa phá tự viện,
quên hết văn hoá tiền nhân, quên cả tiếng mẹ, và nhất là vô tôn giáo. Gien Hán được cấy vào cuộc sống và trên giấy tờ cho những
dân bị trị này. Để rồi khi nước Tàu lâm
chiến với các lân bang mới, tạo biên giới mới, thì chính những công dân hạng hai này sẽ là đội quân tiên phong làm sát thủ, đi
làm cả bia thịt, tưởng mình mang sứ mạng bảo vệ quê hương và chủ nghĩa xã hội
trong khi tộc Hán được an lành làm rốn
vũ trụ, lưu truyền gien Hán, giữ địa vị then chốt, nắm quyền quyết định tối cao
trong guồng máy cai trị trung ương lẫn địa phương.
Người
Tàu đã hát ru, hứa hẹn cho dân chúng, nhất là người lãnh đạo các nước Tây Tạng
(Tibet Hiệp định 17 điểm[42]), Tân Cương, Mãn Châu,
Mông Cổ ..trước khi dùng thủ đoạn và bạo lực tiến chiếm các nước này. Với mức độ
khó khăn khác nhau, nhưng họ luôn thành công.
Thành
công này chỉ có thể trọn vẹn khi họ chiếm cả vùng Đông Nam Á, bắt đầu là Việt
Nam (và Lào, Kampuchia). Tiến chiếm cả thế giới, làm chủ trái đất này có lẽ là
mục đích tối hậu, khi đó mới đáng gọi là Trung Hoa. Nhưng nghĩ cho cùng, mục
đích tối hậu của họ mai kia phải là chiếm cả vũ trụ !
Ngày ký hàng ước mật Thành Đô, các ông lãnh tụ
Việt ấy, chưa hình dung được vai trò cửa ngõ Đông Nam Á, chứ nếu không đã dám cả
tiếng hơn, xin được làm vạn miles trường thành Đông Hải...Tạng vùng tự trị thứ
sáu thuộc ...Hán tộc miền nam cho oai.[43] Nhưng thâm tâm họ, phải
thấy là sai nên không dám công bố cho nhân dân, y lời cam kết với chủ, giữ bí mật,
bỏ lũ dân ếch vào nồi nước ngọt, chất củi than, đợi đến 2015 khi ông Xi sang
châm ngòi, mới nổi lửa ?
Nhưng thử nhìn lại tình trạng kinh tế các nước
chư hầu hiện nay nơi các vùng tự (bị) trị của Tàu và các tiểu quốc thuộc Liên
Xô cũ, đa số đều nghèo, mức sống thấp, khác xa với trường hợp các nước tự trị
trong Khối thịnh vượng chung Vương quốc Anh (commonwealth realm)[44] tuy xưa vốn là thuộc địa
nhưng đa số sung túc, tự do, dân chủ như Úc, Gia Nã Đại, Tân Tây Lan...
Hình 6 : Đường biển, ngõ ra vùng Đông Nam Á
Nhưng không biết vì muốn thoát nghèo nàn hay
vì thật sự thèm khát tự do mà ngay khi xã hội chủ nghĩa sụp đổ tại châu Âu, các
nước trong khối Liên Xô lập tức tung cánh ra khỏi vòng tay xã nghĩa xô viết.
Chuyện
này không xảy ra cho các nước chư hầu Tàu, có thể vì các thuộc địa cũ hoàn toàn
bị đồng hoá, hay bởi Tàu dùng bạo lực đè bẹp những cuộc nổi dậy lớn nhỏ đòi lại
độc lập. Các cuộc nổi dậy được chính quyền trưng ương Tàu gọi là phản động đòi
ly khai, tuy thường xảy ra trong suốt thời gian từ buổi đầu đến nay nhưng không
nhiều tiếng vang và kết quả. Các nước Tây Tạng, Tân Cương và Mãn Châu, nay chỉ
còn là những dân tộc thiểu số, bị Hán hoá, mất cả tiếng nói, quyền tự chủ, chỉ
còn là một thứ folklore địa phưong, mỗi năm vài lần, áo mão đẹp đẽ múa men hát
hò than van hay sung sướng cưỡi ngựa tranh cầu, trước ống kính thế giới. Đa số
đều nghèo kém hơn người tộc Hán, đôi chút thay đổi ngày nay có được cho vùng
Tân Cương, vì trở thành hầm/vựa rượu[45], Tibet vựa nước, Mông Cổ
mỏ vàng mỏ uranium, Ningxia gương mẫu ...Và trong lãnh vực sông Hoàng Hà trở xuống
cực nam, là vùng Bách Việt ngày xưa [46] thì sự đồng hoá đã đến tận
xương tuỷ, đa số đều quên ngọn nguồn Bách Việt hay không Hán. Những người dân hạng
hai ấy, triền miên bị đè đầu đè cổ, tuy luôn luôn có những cuộc vùng dậy trong
suốt quá trình " tự trị " này, bởi vì họ góp phần làm giàu cho tộc
Hán mà không hề được hưởng, nhưng đồng thời, ý chí tìm lại tự do, tự chủ và bản
sắc sẽ bị pha loãng, lụi tàn, biến mất theo thời gian.
Họ
là những " gương tày liếp " cho chúng ta nhìn vào, trước khi mọi sự
trở nên muộn màng, xin đừng chờ nước sôi lên mới nghe nóng, xin hãy lắng nghe lời các bô lão, trí thức,
sinh viên, nhà báo…những người hiếm hoi này sẽ cứu nguy dân tộc nếu chúng ta
cùng ủng hộ, tiếp tay, đồng lòng tham gia thứ hội nghị Diên Hồng dân dã ngàn
năm một thuở để giải cứu đất nước, vì giặc dữ đã vào nhà mà chúng mạnh hơn ta cả
trăm, ngàn lần.
Hình 7 : Quyền lực mềm của Tàu cộng : mọi lũ ếch ngây thơ sẽ tà tà chín rục (chết tươi) với củi lửa của chính mình?
Họ là dân Ouighur, Tây Tạng, Choang-
Hmong- Mèo..., Mãn Châu, Hồi, Mông Cổ sống ở vùng đất biên thuỳ mới (tân cương)
được gọi là tự trị. Người Tàu đặt tên cho các vùng tự trị theo tên các dân tộc
thiểu số, trừ vùng người Hồi ở Ninh Hạ.
1) Người Duy Ngô Nhĩ (
Ouïghour/Uyghur ) của vùng Tân Cương
(Khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương)
Các hình ảnh thuyền nhân bị đắm tàu được
cứu vớt ở Ý hay các di dân nhập lậu qua đường bộ bất chấp hiểm nguy được đưa ra
thường xuyên trong thời gian gần đây trên các mạng lưới truyền thông khiến dân
Âu Châu xúc động. Các chính phủ trong cộng đồng này phải tìm cách giải quyết khẩn
cấp.
Người tỵ nạn chạy trốn đàn áp, chạy trốn
chiến tranh chết chóc. Đa số dân chúng, và người trách nhiệm tuần tra biên giới
các nước đều thông cảm và nhiều khi phải làm ngơ cho qua, hay ra tay cứu vớt
người vượt biên vì họ hiểu được nguồn cội, nguyên nhân của những quyết định vượt
biên tưởng như điên rồ này.
Và đa số người Việt chúng ta không khỏi
quặn thắt cõi lòng, nhớ lại những chuyến vượt biên gian nan của chính mình hay
của người thân, của bạn bè, hàng xóm trong những năm 75, 80, 85, 90.
Từ vài
năm gần đây dân Uyghur (Ouïghour/Duy Ngô Nhĩ) được cộng đồng mạng nhắc đến
trong tình trạng khốn khó, hiểm nguy mà đất nước gây hoạ cho họ là Tàu: dân
Uyghur bị mổ lấy nội tạng, bị truy đuổi, bắt giết ở vùng biên giới các nuớc
láng giềng của Tàu như Việt Nam, Thái Lan và cả Cam Bốt nữa. Những hình ảnh đàn
bà trẻ con bị truy đuổi này khiến thế giới chấn động, và ...rơi vào quên
lãng ?
Khi biết người Duy Ngô Nhĩ chính là hậu
duệ của Tây Độc Âu Dương Phong, có lẽ các thế hệ sinh ra trong những năm 1980,
1990 mê phim Tàu, phim Đại Hàn, nhất là người thành thị miền Nam (trước 1975) sẽ
lưu ý đến số phận của người Duy Ngô Nhĩ. Vâng, chính người Duy Ngô Nhĩ là đồng
bào của tác giả thế Hàm Mô Công vô cùng quen thuộc với người xem truyện kiếm hiệp
Kim Dung[47]. Trên mạng nhiều blogger phân tích truyện, ý nghĩa và cá tính
các tay giang hồ giỏi võ tuyệt vời độc đáo, tung hoành (một thời tại Sài Gòn,
Chợ lớn) trong Võ lâm ngũ bá, Anh hùng xạ điêu.... Và « nỗi băn
khoăn » của chúng ta bây giờ, giản
dị, không mang màu triết lý, khác với Nguyễn Mộng Giác cách đây gần nửa thế kỷ[48], ta chỉ hỏi tại sao những
người này mang gia đình con cái, vượt biên Tàu, trốn qua Việt Nam, Thái Lan để
bị công an, quân đội Tàu truy nã, bắt bớ, bắn giết ?
Họ là người Hồi nói tiếng Thổ đến từ
vùng tự trị Tân Cương trong nước Tàu. Là ngôi sao Hồi trong cách diễn dịch thứ
hai về ý nghĩa các sao trên cờ Trung Cộng : Hán (sao to nhất )Tráng Mãn Hồi Tạng
là bốn sao nhỏ xung quanh để chỉ 4 vùng tự trị lớn nhất[49]
Từ thời lập quốc ở vùng Tây Vực, nay là Tân
Cương, như các tiểu quốc khác, dân Ouighour
đã có mối giao hảo sóng gió và an lành với Tàu, xưa kia quê hương họ
mang tên Tây vực đô hộ phủ và từ đời Đường : An tây đô hộ phủ và Bắc Đình đô hộ phủ : như nước Việt thời
xưa, người Ouïghour cũng từng nhận sắc phong của đế quốc Tàu, thời ấy nước Việt
đã thuộc Tàu (Bắc thuộc lần thứ 2 : An
Nam đô hộ phủ ), cũng như nước Cao Ly (Triều Tiên, Đại Hàn bây giờ) lúc đó
là An Đông đô hộ phủ.
Nhân đây xin nhắc là trong các nước chư hầu cổ xưa của Tàu chỉ có Đại Hàn sau
này dù chia đôi nam bắc, trở thành nước độc lập hùng mạnh, cho nên Xi chưa đòi
đứa con (giàu có này) trở về với Hán tộc.
Cho nên lưu ý đến họ thật ra không chỉ
vì lý do hời hợt liên quan đến cảm tính như nói trên và cũng không chỉ vì nỗi
ngờ vực : có phải họ mang hình ảnh của số phận người Việt trong tương lai -từ
sau năm 2020- ? Thật vậy, như người Việt, họ cũng nhiều lần nổi dậy chống Mông
Cổ, chống Tàu dành lại độc lập, lần sau cùng chưa xa lắm, khi họ đẩy được người
Mông Cổ để rồi rơi vào tay của MaoTrung Cộng.
Thật khó lòng không liên tưởng đến hiệp
ước mật Thành Đô với những câu chữ u ám lường gạt đã được nhân dân sửa lại cho
đúng hơn[50].
Ai, nhất là người trải qua gian khổ vượt biên
hay tị nạn chính trị, khi xem qua các hình ảnh phóng sự, cũng phải chua xót trước
cảnh người Ouïghour bị quân Tàu truy nã, rượt đuổi từ đất Tàu qua đến tận đất
Việt và bị bắt/ giết trước sự thờ ơ của những người lính Việt gác biên giới.
Người lính Việt vùng này không biết hay đã quên rằng có một thời một số đồng
bào cha anh hắn đã bỏ nước, vượt biên, bị truy nã. Như trước đó lính gác Việt
đã vô cảm và bất lực trước cảnh du khách Tàu tự do tràn qua đất Việt, ngạo mạn
cười giỡn chụp hình, làm selfie nơi các cột mốc mới?
Người Ouïghour đi trốn với từng nhóm phụ nữ, trẻ con, ai nấy
mặt mày tốt đẹp phương phi, trẻ con bụ bẫm. Điều đó muốn nói họ đi trốn khỏi nước
Tàu không vì lý do kinh tế, họ chỉ giống Tây Độc, chủ nhân xấu xí tàn ác của
món võ ghê gớm Hàm Mô Công ở chỗ khăn quấn đầu tóc của người Hồi giáo, và vô
cùng giống mọi con người ở một chỗ khác là tình gia đình. Âu Dương Phong nhớ
thương vợ, ôm đàn luyện khúc Lục chỉ và ngày nay ta biết thêm da họ không đen
đúa như Kim Dung đã tả. Có thể trắng thêm ra, phương phi ra vì đã qua gần 1 thế
kỷ bị Hán hoá ?
Họ là những người Tàu trên giấy tờ,
nhưng bị truy nã vì thuộc gốc Duy Ngô Nhĩ. Vì sao có những người Hồi không
thích làm công dân Tàu, dù đã hơn nửa thế kỷ nếm mùi tự trị ? Vùng Tây vực,
hoang dã Tân Cương, quê hương của họ bao la hơn 1 triệu cây số vuông, nằm cực
tây bắc nước Tàu hiện tại, chứa nhiều khoáng sản, mỏ, đất đai trù phú. Những kẻ
tuyên bố và tin chắc như bắp rằng tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân làm sao
có thể cho nhân dân, nhất là nhân dân hạng hai thuộc giống nam man, tây khuyển,
đông di, bắc địch/cẩu tặc vân vân... được bình đẳng và tự do tôn giáo[51] ? Một người trí thức ly khai gốc Ouïghour [52] đã tố cáo những hứa hẹn giả dối này. Và ngay từ thế kỷ 19, họ
đã từng trốn chạy ra khỏi vùng Tân Cương qua các nước khác, như người Tây Tạng.
2) Người
Tây Tạng (nước Tibet cũ)(vùng tự trị
dân tộc Xizang)
Thực hiện cuộc xâm lăng, người Tàu viện cớ giải phóng dân Tibet,
vốn “thuộc Tàu từ đời cổ đại” [53]. Số người Tây Tạng
(Tibet) bị ngưòi Tàu sát hại trong cuộc kháng chiến chống Tàu trước khi đất Tạng
bị sát nhập vào Tàu rất lớn so với tổng số dân ít ỏi. Những người trí thức yêu
nước, hay dân thường ái quốc, nhanh chóng bị loại ra khỏi chiến trường và chính
trường. Để chỉ còn lại nhũng người hoàn toàn bị khuất phục. Và sau mấy mươi năm
bị Hán hoá, bị tràn ngập lấn áp bởi người gốc Hán, người Tây Tạng trở thành thiểu
số trên chính quê hương của mình.
Người Tàu đã ồ ạt đưa dân gốc Hán vào
Tây Tạng và chiếm lĩnh các vai trò lãnh đạo từ địa phương đến trung ương. Những
điều luật ban hành cho vùng tự trị Tây Tạng chỉ có giá trị trên giấy tờ. Người
gốc Hán được khuyến khích lấy vợ Tây Tạng, được giúp đỡ trợ cấp nhiều hơn người
bản xứ. Các thành phố chính đều tràn ngập người Tàu gốc Hán. Trẻ con được học
tiếng Tạng trong thời tiểu học hoặc sau này trong cấp phổ thông, nhưng các cơ
quan hành chính, nhất là thủ đô hay tỉnh lớn đều dùng tiếng Tàu. Dân Tạng muốn
kiện cáo, việc hành chánh quan trọng phải dùng tiếng Tàu vì chánh án, quan toà
lớn, cán bộ gộc trong các bộ máy đều là gốc Hán và không cần phải học tiếng Tạng.
Thứ ngôn ngữ Tàu áp đặt dùng khắp nơi
trong các tổ chức hành chánh, khiến Tạng ngữ, dù mãi về sau này được cho phép dạy
nhiều hơn trong các trường, đã bị lép vế dần và trở nên mai một.
Thiểu số người Tây Tạng theo Tàu làm
tay sai được o bế hứa hẹn một tương lai sáng sủa, dù muốn cũng không đủ khả
năng và sáng suốt để lật ngược tình hình. Là một dân tộc thấm nhuần đạo Phật
không hề bạo động, người Tây Tạng thà tự thiêu hơn là đi giết quân Tàu. Nhưng
trong suốt hơn 60 năm bị cai trị, bị giết hại, trấn áp, họ vẫn nổi dậy và chống
đối. Ngày nay số người Tibet (tên Tàu đặt là Xizang) 6 triệu bị pha loãng trong
Hình 8 : người Tàu và người Hồi
bán hàng trên đường phố vùng Lhassa (photo Trọng Tuyến)
hơn 10 triệu người Tàu và chỉ tiêu của
nhà cầm quyền trung ương (Tàu) là gởi thêm 5 triệu người Hán nữa vào đây trong
vòng 5 năm tới.
Tây Tạng với vùng cao nguyên trên
4000m chứa lượng nước ngọt khổng lồ, với diện tích nguyên thuỷ khoảng 2 triệu
rưỡi km2, nhưng bị cắt xén sát nhập vào các tỉnh tàu lân cận như vùng Qinghai.
Vùng tự trị dân tộc Xizang ngày nay chỉ còn 1 221 600
km², tuy là 40 % đất thuở ban đầu, và mất tên Tibet, vẫn còn là nơi chứa nhiều (nhất nước Tàu) nguyên liệu và quặng mỏ đất hiếm, là
tiền đồn nhìn về Ấn Độ, là nơi Tàu đặt hoả tiễn và vũ khí nguyên tử “ phòng vệ
” chống ...xâm lăng.
3) Vùng Nội Mông (khu tư trị dân tộc Mông Cổ)
Đất rộng (1.280.000 km2) nhưng người thưa, nếu gộp luôn nước Cộng
hoà nhân dân Mông Cổ phía bắc, chúng ta hình dung được đất nước mênh mông của đại
đế Thành Cát Tư Hãn vào thế kỷ 13, và các thủ lãnh của “rợ” Hung Nô, khiến người
Tàu (đời Tần) phải xây vạn lý trường thành hòng ngăn bước chân xâm lược đe doạ
hàng mấy trăm năm.
Thế kỷ 13 – 14 là thời kỳ huy hoàng của họ. Người Mông Cổ chiếm
nước Tàu và đoạt được hầu hết các nước ngoại biên kể cả Tây Tạng, chỉ chịu thua
Việt Nam và Đại Hàn (trước khi Kubilai lên ngôi). Người Đại Hàn gốc Việt do
hoàng thân triều Lý thống lĩnh là Lý
Long Tường đã có đóng góp quan trọng trong chiến tranh Cao Ly (Koryo) chống
Mông Cổ. (hình 9)
Hình 9: đất
Tàu dưới đời nhà Nguyên -Wikipedia –
Chỉ qua thế kỷ
14, đế quốc này bị người Mãn Châu chiếm, thôn tính nhà Ming lập thành nhà
Thanh. Vào năm 1911, khi triều Thanh sụp đổ, Mông Cổ được độc lập nhờ Nga hoàng
ủng hộ.
Sau đó, Mông Cổ
bị chia đôi, phần phía bắc bị Nga liên xô bảo hộ từ 1922 đến 1992 trở thành nước “cộng hoà
nhân dân”. Phần phía Nam bị Nhật cai trị cùng với Mãn Châu đến khi Nhật thua trận
năm 1945.
Sau 1945, phần
nam Mông trở lại thuộc Tàu theo sự phân chia giữa các cường quốc ở hội nghị
Yalta và trở thành vùng tự trị đầu tiên (1947), được Tàu Mao khánh thành sớm nhất
(1947). Thật ra thì năm 1947, người Mông Cổ phù Hán đã nhờ quân Mao giúp lấy lại
độc lập, nhưng khi chiến thắng, Mao trở mặt, dựa vào sự ngây thơ và thần phục
Tàu của thanh niên và trí thức Mông, cuối năm 1949, nam Mông Cổ trở thành Khu tự
trị dân tộc Mông Cổ thuộc nước Tàu, chuyên chính cộng sản thay thế chính thể
quân chủ lập hiến của Nội Mông. Chùa chiền bị phá bỏ, những vụ án xử tử người
Mông Cổ “phản động và phản cách mạng”
tiêu diệt nốt những người Mông Cổ yêu nước sau cùng. Mông Cổ là dân du mục truyền
thống, người Tàu đã chỉ cần giết các đại thảo điền chủ, tịch thu những đàn thú
thảo nguyên khổng lồ, tập thể hoá của cải này là thừa sức phá tan truyền thống
du mục.
Năm 1954 hiến
pháp TQ ghi nhận quyền cho phép nói và dạy tiếng Mông Cổ, nhưng qua 1957 thì lại
cấm dạy ở tiểu học. Vào năm 1958 trong bước đại nhảy vọt, để cả nước tiến như nhau, phong tục, tập quán, tôn giác
khác biệt các vùng tự trị đều bị trừ bỏ.
Dân số nội
Mông trên 20 triệu, trong đó chỉ có 17 %
là người Mông Cổ, phần còn lại là người gốc Hán, và dân các vùng tự trị
khác. Nguồn gốc, tập tục, văn hoá, tiếng
nói, ngôn ngữ của từng dân tộc trở nên mờ nhạt xa vời. Những biện pháp nới tay,
mở rộng thêm chút quyền tự do, dân chủ v..v..đều được ban hành muộn màng, khi
người dân đã hoàn toàn bị Hán hoá. Dĩ nhiên ban hành là một chuyện, trên thực tế
có áp dụng không lại là chuyện khác.
Từ những năm 80 (1987, 1990 ...) đã có những cuộc biểu tình nổi dậy,
nhưng tất cả đều nhanh chóng bị dẹp tan. Ngày nay, đọc sử hay đi viếng đất (Nội)
Mông Cổ, du khách học rằng Thiết Mộc Chân Thành Cát Tư Hãn Nguyên Thế tổ, đại đế
Mông Cổ tung hoành thế giới xưa kia, nay là anh hùng người ...Tàu[54] !
Ngoại Mông vẫn giữ chính thể độc lập và cố gắng
chống sự Hán hóa từ phía Nam. Tuy nhiên, sự yếu kém về kinh tế trước nước Tàu
cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 khiến Ngoại Mông đã bị tràn ngập bởi hàng hóa Tàu,
người Tàu. Ngày nay họ cũng phải bỏ Nga quay về cầu cạnh người (phía)
Tàu...
Vùng ngoại
Mông này cũng đất rộng (1.564.116 km2) người thưa, nhiều mỏ, nguyên liệu quý
báu như đồng, vàng, sắt, kẽm, molybden, nhôm,
khí đốt tự nhiên, dầu mỏ… Mông Cổ có trữ lượng uranium hơn 1 triệu tấn. Nước
này đất rộng với chỉ 3 triệu dân hiện đang lâm vào tình thế lệ thuộc Tàu, nguy nan hơn cả nước Việt Nam.
Sau những năm lệ thuộc khối cộng sản, Mông Cổ Nam lẫn Bắc, dù đất giàu
tài nguyên, mênh mông thảo nguyên, sa mạc, nhưng vẫn là dân tộc nghèo nhất
trong vùng, nghèo nhất nước Tàu. Người gốc Hán tràn ngập đất Nội Mông, nắm hết
mọi quyền hành và quyền lợi. Người Tàu mua rác- thải công nghệ hạt nhân đem đổ
tại đất nước này. Tương lai Mông Cổ bây giờ là một khúc vạn lý trường thành bảo
vệ tộc Hán khỏi cái nhìn xâm lăng của ...Putin.
4) Vùng Quảng Tây : khu tư trị dân tộc Zhuang (Choang hay Tráng)
Cuối
tháng 9 qua đầu tháng 10 năm 2015, hàng loạt vụ nổ xảy ra tại vùng Quảng Tây,
vùng tự trị của dân tộc Tráng (Choang hay Nùng) bên Tàu gây chú ý trên thế giới.
Cùng với Quảng Đông, đây là vùng Lưỡng Quãng, có giáp ranh với Việt Nam, ngày
xưa có liên quan quen thuộc với Âu Lạc và Tây Âu thời cổ đại[55]. Thuộc ngôn ngữ Thái
-Kadai
Người
Tráng chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ bên cạnh người gốc Hán, chỉ đông hơn các dân tộc thiểu
số khác như Mèo, Lô Lô, Thái... Sự phát triển kinh tế khá chậm so với toàn thể
nước Tàu nhưng dân số đông nhất so với các khu tự trị khác, gần 50 triệu dân
cho một diện tích gần bằng nước Việt 237 693 km2. Ta có thể xem như vùng này thuộc tộc Bách Việt, khoảng thế kỷ 1
trước công nguyên đến thế kỷ 3 sau CN không ngừng bị người Tàu, hết Tống đến
Nguyên[56] xâm chiếm, cai trị. Dân
Choang đã từng ủng hộ cuộc nổi dậy của hai bà Trưng chống nhà Đông Hán. Về sau
một người Choang là Nùng Trí Cao[57], một thời làm run sợ nhà
Tống, đánh nhau ngang ngửa với tướng Tàu Địch Thanh, xưng đế lập quốc giữa thế kỷ 11, đánh chiếm một
vùng rộng lớn thuộc Quảng Châu, Quảng
Tây.
Qua
đời nhà Minh, người Hán giúp khí giới cho người Choang đánh nhau với người Mèo.
Năm 1912 khi nhà Thanh mất, họ cũng muốn vùng lên đòi độc lập nhưng không
thành, đến năm 1927 khi họ nổi dậy thì bị Tchang Kai Chek đè bẹp. Họ hoàn toàn
thần phục người Tàu, từ năm 1949, và trở nên vùng tự trị vào năm 1958 dù không
hề đòi hỏi. Gien Hán của nhiều người Choang chắc là nhiều hơn gien Bách Việt và
xa hơn người Việt hiện tại qua hơn hai ngàn năm bị Hán hoá!
Chút
xíu dấu vết còn lại của tộc Bách Việt nơi này hoạ chăng là ở câu ca dao rất giống
người Việt Nam. Ếch nhái là con gái nhà
trời. Coi ếch là con gái của thần sấm sét, dân Choang nhảy múa điệu ếch để
cầu mưa. Người Việt mình thì nói con cóc
là cậu ông trời, hễ ai đánh nó thì trời đánh cho. Chắc chưa đủ để nhìn bà
con tộc Việt? Nhưng khoan lo, xin xem hồi sau sẽ rõ.
Khu
tư trị Ninh Hạ có gần 7 triệu
người, tôn giáo chính là đạo Hồi. Với diện tích 62 818 km2, Ningxia là khu nhỏ nhất trong các khu tự trị
của Tàu và cũng là vùng có tổng sản lượng quốc gia thấp nhất nước Tàu. Nằm giữa
phía bắc nước Tàu, nơi có Hoàng Hà chảy qua, giáp giới các tỉnh Thiểm Tây, Cam
Túc và khu Nội Mông. Thủ phủ là Ngân Xuyên, xưa là thủ đô nước Xixia (Tây Hạ) của các bộ tộc Đảng Hạng, Thổ Phồn sau một thời
lập quốc xưng đế, từ thế kỷ thứ 9, từng dựa Đường, nhờ Tống giúp đỡ chống cự
hay xâm chiếm các nước lân cận (Liêu, Mông Cổ...) trở nên hùng mạnh vào thế kỷ
11.
Nhưng rồi cũng
như các nước phương Nam thời đó (phía nam Dương Tử giang), vùng Tây Hạ lệ thuộc
tộc Hán trong nhiều giai đoạn, từ đời nhà Tần, và sau cùng hoàn toàn bị Hán
hoá. Gọi là dân tộc Hồi nhưng họ chỉ có 20% còn tộc Hán chiếm 79% dân số!
Sau khi bị Mông Cổ thống trị thế kỷ 13, người Đột Quyết
theo đạo Hồi di chuyển dần vào Ninh Hạ từ phía tây vùng này mới trở thành vùng
Hồi giáo. Như vậy, mặc dù có sự pha trộn với người Hán, vùng này là cát địa của
nhiều bộ tộc phương bắc khác với tộc Hán cho đến gần đây. Như người Hồi đến từ
Trung Á, họ có màu da sậm và mắt màu nhạt hơn dân Hán, cũng như có y phục, tập
quán, tôn giáo của người Hồi. Trước đó dân Tây Hạ theo đạo Phật, ngày nay còn
nhiều di tích, lăng mộ ở đó.
Kim Dung đã đưa
vào Lục Mạch Thần Kiếm nhân vật Tiêu Phong. Tiêu Phong gốc Liêu[58] và Cưu Ma Trí người Thổ
Phồn làm quốc sư nước này là những người võ công thật cao, một chính một tà.
Truyện cũng có một đoạn dài xảy ra ở thủ đô Tây Hạ, với mối tình đẹp giữa Hư
Trúc và công chúa Tây Hạ Ngân Xuyên. Như vậy qua Kim Dung ai cũng biết có nhiều người tài giỏi trong các nước độc lập
ven biên Tàu mà ngày nay đã bị Tàu sát nhập.
Nhìn
người lại ngẫm đến ta
Trong
lịch sử thế giới, các đế quốc hùng mạnh nhất, hung dữ nhất từ
đế quốc Hy Lạp cổ đến La Mã đều không thoát được vô thường: thành, trụ, hoại, diệt.
Khi
liên bang Xô Viết hùng mạnh sụp đổ, khối này vỡ tan thành 13 quốc gia độc lập. Riêng nước
Tàu vẫn đứng vững và tiến triển cực kỳ nhanh chóng. Tại sao ? Vì nó chưa đến thời hoại, diệt?
Sức mạnh lớn nhất Trung cộng thành tựu/ đến từ khối đông đảo người Tàu. Tàu
chính gốc Hán và Tàu...gốc Bách Việt (và gốc khác từ các vùng bị Hán xâm chiếm
từ xưa). Sức mạnh của Trung cộng còn là sức mạnh của Hán ngữ, có hệ thống chữ
viết hoàn chỉnh, giàu có, vừa có vai trò lãnh đạo lại luôn luôn sử dụng bạo lực
vào nên sự bành trướng Trung Hoa thật mãnh liệt.
Sức mạnh ngôn ngữ này ta đã từng thấy
nơi vùng nam Mỹ với Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
Người Tàu được (nhà nước Tàu) gọi là tộc
Hán phương nam và Hán phương bắc, nói chung là tộc Hán nhưng sống tại hai miền
nam bắc chia cách đại khái bởi sông Trường giang hay Dương Tử giang. Nhưng đa số
dân Hoa nam tại hạ lưu Trường giang xưa kia rất có thể là dân tộc Bách Việt
(xem phần sau).
Người Hán thời đó đặt tên các nhóm khác nhau của
Bách Việt là: Dương Việt, Tây Âu, Lạc Việt, U Việt, Điền Việt, Dạ Lang (xem bản
đồ hình 7) Phần lớn vùng này bị mất vào tay quân Hán phương bắc vào cuối đời
nhà Tần bên Tàu, rồi trở thành nước Nam Việt của Triệu Vũ Vương, chư hầu phía
Nam của nhà Hán.
Các nước cũ, nay là vùng tự trị, đều ở
vùng ven biên, làm tường thành che chắn cho tộc Hán và đều là những vùng nghèo
so với thủ đô và các tỉnh lớn khác.
Quyền hành gọi là tự trị được phân chia
theo luật định trung ương, cho các nhóm dân thiểu số ít đông hơn nhóm dân
chính. Như thấy ở trên, vùng Tibet, ngoài dân Tây Tạng chính cống, còn nhiều
dân tộc khác nữa, không kể đến dân Hán chiếm đa số. Cho nên dù các đại diện mọi
dân thiểu số có hợp sức, cũng không thể chống lại đa số Hán. Mỗi dân tộc thường
chỉ có thể tranh đấu cho nhóm dân tộc mình. Chưa nói đến mọi quyết định quan trọng
của chính quyền địa phương nằm trong tay đảng cộng sản, mà bí thư đảng luôn luôn
là người tộc Hán. Vô phương cục cựa! Nhưng về mặt sinh tồn, sức sống của những
trăm triệu người nơi vùng này vẫn tiếp tục và ít nhiều hoà lẫn, cho dù ta vẫn
thấy Hán phương Nam tướng nhỏ thó, mắt tròn, mặt thon, càm nhọn, giống người Việt...ta,
khác với Hán phương Bắc to con, da trắng, mi mắt sưng mỡ, gò má cao, mũi cao.
Khác nhau như hai người tình của Marguerite Duras[59]. Khác nhau như Deng và
Xi.
Xin làm vùng tự trị hay khác hơn, trở
thành tỉnh lớn của Tàu thì thân phận tôi đòi hay chư hầu cũng không khác chi một
thứ dã tràng cặm cụi xe cát cho tộc Hán tiếp tục xây lâu đài.
( Cho gien Hán có chỗ tiếp tục sinh sôi
cai trị áp bức !)
Việt ở phương Nam
Thời chiến quốc (giữa thiên kỷ I trước
công nguyên), cũng như các bộ tộc sống phía
Nam rặng Ngũ Lĩnh, Vương quốc Nam Việt mất
vào tay Hán Vũ Đế năm 111 TCN. Từ lúc đó nhiều nước Bách Việt bị các vương quốc
liên tiếp thuộc Hán tộc bắt làm thuộc địa
(hình 10 ), các quận nhà Hán
trong vùng Bách Việt ở đất Lĩnh Nam vào đầu Công Nguyên). Mãi đến khi Ngô Quyền
phá tan quân Nam Hán dân Việt mới được độc lập từ năm 939 với triều Ngô, sau một
ngàn năm lệ thuộc Hán tộc.
.
Hình 10 : Lạc Việt và Âu Việt
Hình 11. Các quận
của Bách Việt ở Lĩnh Nam và Nam Việt vào thời Đông Hán
Các
nước chư hầu Bách Việt khác ở đất Lĩnh Nam có lẽ đa số không còn nhớ gì về thời
cổ đại, không còn nhớ cội nguồn văn hóa Hòa Bình rất xa xưa. Thật ra cội nguồn
nào kháng cự lại được các chính sách đồng hoá của các vua Hán từ trên ngàn năm
nay, và nhất là ngày nay với bạo lực và tuyên truyền, bóp méo lịch sử của chế độ
thực dân kiểu cộng sản Tàu ; từng giai đoạn, người tộc Hán, nắm giữ quyền trung
ương lẫn địa phương đã lần hồi tiêu diệt các trí thức cũ và đồng hoá tối đa tuổi
trẻ (Trăm hoa đua nở, cách mạng văn hoá ).
Suốt hàng ngàn năm lệ thuộc, chắc chắn một số nhỏ can cường đã ra đi tìm đất sống
mới, nhiều đợt ra đi, tụ hội, hoà huyết với người bản địa lập thành bộ lạc mới,
nước mới trên bước đường thiên di. Người ở lại, quên mối đau thương chia lìa,
quên hận vong quốc, trở thành người...Tàu
(phương nam).
Nhưng
có dễ quên không ? Ngược dòng lịch sử người Tây Tạng, Tân Cương, và người Tráng
( Choang hay Nùng – Nông -) tuy bị Hán hoá đã lâu nhưng đến đầu thế kỷ 20, vẫn
luôn có người nổi dậy, muốn ly khai Trung quốc, nhưng người Choang, người Mông,
nằm giữa trùng vây Hán tộc, cho dù chỉ là Hán thiểu số, bên cạnh các dân tộc
thiểu số khác, bất đồng ngôn ngữ và văn hoá. Và sắc tộc nào cũng là thiểu số
trong đa số các sắc tộc ấy, muốn truyền thông, sống còn với nhau và với trung
ương, chỉ còn một “lựa chọn duy nhất”: nhận lấy thứ ngôn ngữ, văn hoá áp đặt:
chữ Hán của Trung quốc. Đây chính là thượng sách trong phương cách rất thực dân
chia để trị của Hán tộc.
Tình
trạng bi đát của tộc Việt hiện nay
Với hành trang
nhược tiểu Việt Nam
Một
trong Bách Việt phương nam, trước và sau một ngàn năm bị Tàu đô hộ, đã tiến
(hay lui dần) về phương Nam tìm đường sống, chiếm đoạt đất đai của người yếu
hơn, so với Tàu cũng đã phình ra sau vài trăm năm. Đây là cơ may để tiến bộ của người Lạc Việt, nhờ sự pha trộn với
lãnh thổ và cư dân bản địa, giống gien Đông Nam Á hoà trộn lại với con cháu những
tổ tiên của các đợt di dân nghìn xưa, rửa bớt văn hoá và gien Hán của một nghìn
năm đô hộ cũ. Vận may thứ nhì đến lần nữa qua trăm năm thuộc Pháp. Một lần nữa,
tộc Việt bị buộc phải quay nhìn về phương khác, học hỏi, hoà hợp, khẳng định lại
bản sắc (mới). Chỉ một phần mười thời gian chịu ảnh hưởng Tàu, nhưng giá trị rất
lớn, trong khi các tộc Bách Việt còn ở lại tại chỗ, bị Hán hoá đến tận cùng
xương tuỷ.
Sau
thế chiến hai, như đa số các nước trên thế giới, đất nước Việt Nam nhân/chia
đôi thành hai quốc gia, theo hai tổ chức sống và nghĩ khác nhau. Nhân đôi là nói
theo kiểu lạc quan, nói khác thì là bãi chiến trường nóng cho cuộc chiến tranh
lạnh. So với các nước bị thần phục như Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ, hoặc các
quốc gia bị băm vằm chia cho bên thắng cuộc sau thế chiến thứ hai, với cuộc phân
chia nam, bắc; thoạt tiên người Việt có thể nghĩ mình còn may mắn, hai đất nước
áp dụng 2 chủ nghĩa khác nhau tư bản và cộng sản; nhận chịu kết quả cùng hệ luỵ
tất nhiên của các chủ nghĩa này. Nhưng cây muốn lặng mà cuồng phong chẳng ngừng
thổi tới cuộc chiến tranh (lạnh)
Cho
nên với quyết tâm giải phóng miền Nam, chỉ
cần nhờ người Tàu giúp (khí giới ?),
miền Bắc cộng sản đã toại nguyện sau 20 năm nội chiến tàn khốc. Mỹ Ngụy “ nhào và cút”, trong hơn 17 triệu người
miền Nam mất đi 3 triệu, hoà bình đến, thêm 3 triệu bỏ nước ra đi, hơn phân nửa
ở lại, (hoà ?) hợp sống chung với người Việt miền Bắc, cùng xây dựng lại đất nước.
Tưởng rằng từ đó (1975) nước Việt sẽ phát triển trong tự do, độc lập, dưới (chế
độ xã hội chủ nghĩa), và thêm sự "giúp đỡ" của hai đàn anh cộng sản đồ
sộ Nga, Tàu. Thế nhưng hai đàn anh bây giờ chỉ còn một, và nước Việt, hơn 85
triệu dân, mà vẫn như các nước trong liên bang Xô viết cũ: nghèo đói chậm tiến,
bị xếp hạng bét hay áp bét trong khối Đông Nam Á về lợi tức trung bình đầu người
(thu nhập hàng năm), đứng đầu trên vài ba chục nước ...nghèo kém nhất thế giới,
lại thêm mang mối nguy mất tên, mất nước vì đàn anh còn lại:Trung Quốc.
Như
vậy tự hỏi hay vô cùng nghi ngờ về phương cách giúp đỡ cũng như tình nghĩa vô sản của các nước lớn này là điều hiển nhiên.
Quả
nhiên, sau này, người Tàu, kể lể công ơn và muốn người Việt trả nợ đạn bom và hợp
tác “toàn diện” với họ trong chiều hướng họ quyết định.
Môi
lưỡi tay chân anh em xã hội chủ nghĩa đã thực hiện tình hữu hảo huynh đệ thế
nào để nước Việt ra như thế?
Ra
khỏi cuộc nội chiến, Việt Nam thống nhất dư thừa ngạo mạn hân hoan nhưng kiệt
quệ về mọi mặt. Hay nói kiểu ba phải thì nửa vui, nửa buồn. Nửa giàu lên, nửa
nghèo đi. Nửa ăn mừng chiến thắng, nửa ngậm đắng nuốt cay. Nửa mạnh (dẹp Khmer
đỏ) nửa yếu (bị Tàu san bằng vùng biên giới). Nửa cộng nửa tư bản ...đỏ. Nên lạ
lùng chẳng giống ai. Cho nên chỉ 10 năm sau trận đánh tàn khốc vùng biên giới,
Tàu khuất phục được (tinh thần ?) nước Việt.
Tinh
thần, tâm thức của người Việt phải chăng đã bị bào mòn qua ba mươi năm chiến
tranh gần như không ngưng nghỉ ?..nội chiến
từng ngày, bom tấn, bom bi, bom napalm, lựu đạn, mìn claymore, Ak 45, 47,
M16, CKC, pháo kích, không kích, oanh kích, B52, B40... Rồi sau tháng tư 1975,
Bắc (tự nguyện) vào nam, Nam (bị lôi) ra Bắc. Kẻ mất cha, mất chồng, con, anh,
chị em, mất nhà cửa, tài sản, nơi chôn nhau cắt rún, kỷ niệm....
Chúng
ta khác “thường”, bệnh hoạn, bị tổn thương mà không nhận ra. Từ ngày ngưng chiến,
không có một cuộc chữa bệnh nào hay một hành động an ủi, cử chỉ hào phóng đến từ
giới lãnh đạo, không một trấn an tập thể nào cho những người sống sót sau cuộc
cuộc chiến và hai lần chia tay xé ruột ? Chỉ có : trả thù và tự thưởng công khi
lao mình vào cuộc sống. Thưởng ,phạt đến ba đời con cháu. Của cải, tinh thần
nào không kiệt quệ?
Người ta có nghĩ đến người chết, nhưng đa số
là để tự trấn an lương tâm, tự biện hộ, tạo ảo ảnh để kể công, để duy trì miếng
ăn, quyền lợi cho kẻ sống.
Mười
năm hoà bình mà xúi thanh niên hát đường
ra trận mùa này đẹp lắm, để cho nhân dân tiếp tục làm anh hùng cày sỏi đá
và con quan thì lại làm quan?
Hai
mươi năm hoà bình mà còn mời sư cô cải trang mặc áo bà ba đen cầm súng vác mã tấu
hân hoan hát bài em đi làm nữ du kích
?
Ba
mươi năm chia chác, đổi bán, phung phí hết mọi thứ chiến lợi phẩm lớn nhỏ, bây
giờ vẫn vẫn tiếp tục lấy đất ruộng nông dân xây cất đủ thứ riêng chung trừ
tương lai nông dân. Việt Nam xứ nông nghiệp lâu đời, (nên 40 năm vẫn) chưa kịp
chuyển hướng công nghiệp kỹ thuật, mất đất rồi nông dân biết gieo hạt lúa vào
đâu? Ta lại không/chưa giỏi buôn bán, thương mại hàng hải mà cứ cắm đầu giao
khoán, giao thương ký hợp đồng với kẻ (thù truyền kiếp) mạnh bạo[60] thì đúng là tự sát chứ
không phải bỏ điều 4 hiến pháp mới là tự sát. Bạch thư tố cáo Trung Cộng và
chính sách nham hiểm tàn độc của họ đối với Việt Nam vẫn còn kia.
Mấy
mươi năm hoà bình thống nhất độc lập tự do mà phải hàng năm sang Tàu, quỳ lạy
tượng Mã Viện, tên tướng Tàu đã bức tử hai nữ anh hùng nước Việt ?
Trong
chúng ta có người may mắn tự vượt lên, tự chữa, để tiếp tục cuộc sống. Vì cuộc
sống tiếp tục, dù ta có muốn hay không. Tiếp tục nơi quê mình, quê người, tiếp
tục mưu sinh, nuôi con, dưỡng cha mẹ vân vân ...
Mà
bệnh có khỏi chưa ? Vết thương trong lòng trong tim, óc đã khép lại, đã thành sẹo,
đã lành lặn chưa ? Vẫn thấy đâu đó: cuộc chiến tàn chưa? Và câu khẳng định: chưa!
Cách
trả lời tốt nhất là thử nhìn lại lối sống, phương hướng ứng xử với nhau và với
người khác của chúng ta hiện nay. Ở ngoài nước, chúng ta luôn nhớ về quá khứ,
nhớ lại những kỷ niệm êm đềm hay đau thương để ...đau đớn kết án, căm hờn. Dưới
mắt chúng ta Việt Cộng có bàn tay lông lá khắp nơi (mà thật vậy, họ thò bàn tay
chia rẽ trong khắp các hội đoàn, tổ chức văn hoá, tôn giáo, xã hội người Việt hải
ngoại. Tại sao họ không thò bàn tay thò tim óc nhìn vào những lấn lướt gian
manh, âm mưu của người Tàu trên đất nước VN. Đánh nhau cho Tàu, cho Nga xong rồi,
nợ kia đã trả rồi mà) nhưng ta chỉ biết chửi nhau, kiện cáo nhau, hành hạ nhau.
Thì câu hỏi đặt ra thêm nữa là có phải cộng sản VN tiếp tục thi hành lệnh cộng
sản Tàu để chia rẽ tiếp tục làm suy kiệt tộc Việt?
Trong
nước thì người dân đen buộc lòng hay thật sự tin tưởng, giao phó vận mạng của
chính mình và đất nước cho một thiểu số người quyết định. Đa số không nhìn thấy
sức mạnh của chính họ, cũng như không nhìn thấy những vết thương và bệnh tật,
những bất bình thường, bất công trong đời sống xã hội. Đa số cam chịu, thụ động
chấp nhận. Bươn chải, vất vả kiếm sống.
Phải
nhìn kỹ những biện pháp do nhà cầm quyền tại các nước tân tiến áp dụng cho các
nạn nhân mỗi khi có tai ương xảy ra bất ngờ với số đông người, chúng ta mới hiểu
được kích thước những tổn thương tồn tại nơi dân Việt từ hàng chục năm qua.
Tại Mỹ, ngay sau cuộc khủng bố september
11 năm 2001, phim ảnh báo chí nhắc nhở đến tùng nạn nhân trong mấy nghìn người
tử nạn, từng hành động cứu người, nhắc nhở để vượt qua đau đớn và tìm lại ổn định
tâm lý (chưa nói đến việc đem quân đi trừng phạt nước thù!).
Tại Pháp, gần đây nhất là khi khủng bố tự
xưng tín đồ Hồi giáo (quá khích) nổ súng giết chết ba đứa trẻ đạo Do Thái, mười
một nhân viên tuần báo nổi tiếng Charlie Hebdo, 4 người khách hàng trong một
siêu thị Do Thái, 130 khán giả trong buổi ca nhạc, hơn 20 khách ngồi quán trà
rượu, ngay tại thủ đô Paris... Hơn bốn
triệu người Pháp xuống đường tuần hành phản đối bọn giết người và tỏ lòng
thương tiếc tưởng nhớ các nạn nhân, nhà cầm quyền tổ chức lễ tưởng niệm, giúp đỡ
thân nhân, chưa nói đến việc truy tìm thủ phạm từ gốc đến ngọn. Các nhà tâm lý
đi thăm hỏi gia đình, báo chí ghi lại từng tiểu sử, phỏng vấn người thân cận.
Trong nước Việt ta, trong thập niên vừa qua, con
số người chết cũng tương tự, chết trong đồn công an hay tù nhân chính trị bị giết,
bị hại, lại chỉ gây phẫn uất cho gia đình nạn nhân và bất bình nơi một số nhà
tranh đấu cho nhân quyền công lý. Và những người tranh đấu này bị (nhà cầm quyền
thuê ) côn đồ bao vây quấy nhiểu, đánh đập, thậm chi vu oan bắt bớ bỏ tù.
Tất cả những cái chết tức tửi, oan uổng,
bất thường, thảm khốc đều là biến cố
kinh hoàng cho tuyệt đại đa số con người bình thường, sống trong những đất
nước bình thường, nên họ cần những phương cách trị liệu nhằm hàn gắn vết
thương, ổn định tâm lý người thân, kẻ sống sót.
Đã hiểu được nguyên nhân, cuộc chữa trị tâm thần
người Việt sẽ dễ dàng hơn. Nhưng cơn khủng hoảng trầm trọng nhất cần giải quyết
trước mắt là làm sao biết để sang một bên những oán thù khác biệt, biết đoàn kết
để cứu đất nước. Thoát khỏi lưỡi dao Tàu đang nằm lơ lửng trên đầu cổ đã rồi ta
sẽ tính sau. Để qua một bên những khác biệt không có nghĩa là bỏ quên
quá khứ và lịch sử.
Cuộc
di tản lớn lao lần này đã là lần cuối cùng, may ra rồi sẽ còn một nơi nương náu
tâm linh, một chỗ đi về. Còn đất nước còn tiếng nói, còn quyền tự định đoạt cho
chính mình. Đừng để muộn màng chúng ta sẽ không bao giờ gượng dậy được nữa.
Thử kiểm điểm lực lượng,
tiềm năng và tìm sách lược kháng cự.
Ngày nay chúng ta đông dân hơn thời Bách
Việt xưa và chúng ta may mắn tiếp xúc và học với các nước phương Tây, chúng ta
cũng sống trong thời đại thông tin cực kỳ nhanh chóng, chúng ta có anh em bà
con khắp nơi trên thế giới, chúng ta nhìn rõ tật bệnh để chữa lành và tiến tới.
1 1)
Gien Bách Việt ?
Về nguồn cội, người Hán phong gốc Hán
cho tộc Bách Việt ở phương Nam. Họ gọi những dân tộc Bách Việt xưa là anh em của
họ ở phương Nam, tộc Hán ở phiá nam. Gốc Nùng (Choang), gốc Đại Lý, gốc Việt
xưa kia đều là con cháu nhà Hán, theo họ. Ngày xưa bị gọi là Nam man với cấu tặc,
bị đè đầu làm tướng làm quân đi đánh anh em tộc Việt vì không nhớ cội nguồn xưa
cổ. Họ chỉ còn biết ngôn ngữ chữ viết Tàu, chỉ biết Thủy Hử với Tam Quốc Chí
Đông Châu Liệt Quốc, sử ký Tư Mã Thiên, lấy làm hãnh diện làm con cháu Lưu Bị,
Quan Công.
Tiếng
nói tập tục đã quên, cổ sử mơ hồ[61], mà phe chiến thắng thì lại
viết sửa lịch sử. Cho nên nếu ta để ý xem, hầu như các dân tộc Tàu (mới) này,
như người Việt, đều có (truyền thuyết sáng giá và riêng biệt về) tổ tiên, nhưng
các tổ tiên này đều...(cưới) lấy cháu của
ông (vua) Tàu nào đó. Lâu ngày thì tộc Hán đều là ông ...cố nội của các tộc
khác. Nên ta không ngạc nhiên khi nhiều người Việt, vin vào cổ sử, vào vài tập
tục, truyền thống, cam đoan tổ tiên mình là người Tàu. Thì bởi tại bà Âu Cơ là
cháu Đế Lai. Và ngược lại, dĩ nhiên, cũng có người Việt quả quyết dân mình là
...ông cố nội của người Tàu. Nghĩa là đằng nào cũng có bà con. Nguy là chỗ nhìn
bà con với thứ bậc Khổng Nho, vua tôi, con dòng trưởng con dòng bé, thiên mệnh
với chính danh, chính vương.
Điều
quan trọng là cuộc sống chung hoà bình và bình đẳng, chứ không phân định anh
em, bà con để ức hiếp những thân phận em nhỏ và họ hàng xa theo kiểu giai cấp
phong kiến...Tàu. Nếu trở lui về thời tiền sử và kính lão đắc thọ hay ngàn vàng
mua lấy láng giềng thì mọi người phải tôn kính hậu duệ tiên tổ loài người là
người Phi Châu, đa số ngày nay đều nghèo không thể có ngàn vàng để mua lân bang
hữu hảo.
Xem
bản đồ dưới đây[62].
Hình 12: Hướng thiên di của người hiện đại từ đông Phi Châu đến dần Đông
Á 65 000 năm trước
Huyết
học và di truyền học dựa trên đặc tính sinh học máu và trên di tích trong gien
con người đã đi ngược được hàng ngàn, hàng chục ngàn năm, thì gốc con người, đường
địa di, hải di đã được thiết lập dần từ vài thập niên gần nay, nhất là từ lúc
chương trình phân tích gien “thô” và giải mã gien con người Hugo (Human
Genome Project) và Encode lần
lượt được phát động năm 1990 và 2003.
Đường
đi của người hiện đại từ phía đông châu Phi, nơi họ sinh ra từ hai trăm ngàn
năm trước, đi đến sống ở Á, Úc và Mỹ châu càng ngày càng rõ ràng hơn. Dù còn
nhiều chi tiết cần được soi sáng cho tỏ tường gốc gác mỗi tộc người địa phương,
con người thiên di theo các ngã chính đến các vùng lớn trên thế giới đã được định
rõ. Nói khác đi, các người cổ (Người Khôn Hiện Đại) đã đến nơi nào đó theo thứ
tự thời gian, nói chung đã được đa số các nhà khoa học chấp nhận. Những tranh
cãi về chi tiết sở dĩ có là do có sự liên tục pha trộn giữa gien người đi, người
ở, người trở về...Nhiều đợt lớn nhỏ, đi về, pha trộn đan xen với nhau. Mỗi khoảng
thời gian đi (về) là hàng trăm hay hàng ngàn năm, lớn nhỏ tuỳ thuộc vào điều kiện
khí hậu và môi trường sống.
Từ
thời sơ khai, giống người hiện đại sau khi rời Phi Châu, qua tới bán đảo Ả rập,
họ đi/sống dọc theo biển cùng tên, xuyên qua Iran, Pakistan, Ấn Độ bây giờ để đến
vùng Đông Nam Á (ĐNÁ) khoảng 50 – 60 ngàn năm trước đây. Một nhóm tiếp tục theo
ven biển trên thềm lục địa ĐNÁ có tên Sundaland lúc đó chưa bị ngập bởi hiện tượng
“biển tiến” (khi trái đất nóng lên làm tan băng). Nhóm này qua quần đảo
Indonesia đến nơi xa nhất của đất liền, rồi vượt biển vào châu Úc. Nhóm ở lại
quần đảo Indonesia sinh sống một thời gian mười, hai mươi ngàn năm ở ĐNÁ, sinh
sôi con cháu đông đúc. Nhưng khi đời sống hay khí hậu trở nên khó khăn trong
các nhóm định cư tại ĐNÁ, hàng đoàn người đi ngược lên phía Bắc. Tùy theo nơi họ
ở lúc khởi hành, họ lên phía bắc qua ngả Nam Trung Hoa vùng ĐNÁ lên quá khỏi
Hoàng Hà vào vùng Đông Á, hoặc đi vòng phía bên trong, qua cao nguyên Tây Tạng
lên đến phía Đông vùng Trung Á.
Kết
quả phân tích gien truyền qua người mẹ, mt DNA, hay người cha (qua sắc thể Y)
cũng đưa đến cùng kết luận, là các bà mẹ ông cha tổ của người Đông Á đều là dân ĐNÁ thiên di
lên phương bắc, mặc dù đường thiên di phía mẹ không trùng với cha. Phải chăng
đây là cuộc chia tay rồi trùng phùng của nhiều Lạc Long Quân với Âu Cơ, huyền
thọai chia tay mẹ cha rồng tiên, kẻ lên núi, người xuống biển (nhiều lần) của
các tộc thời tiền Bách Việt ?
Rõ ràng khoa sinh học di truyền
và ngành khảo cổ đã chứng minh dân Tàu có tổ tiên phía bên cha lẫn phía mẹ là
cư dân vùng ĐNÁ, tức là vùng của nước Việt và các nước ven biển đông nam lục
địa này. Và bởi vì con người sống trên toàn thế giới đều có cùng chung tổ tiên,
từ Đông Phi đã thiên di tuần tự đến các nơi chưa từng có người ở. Vì Hy Mã Lạp
Sơn ngăn trở, muốn đi đến phía bắc Tàu, tổ tiên chung của toàn người Hán và
Bách Việt từ Phi Châu bắt buộc phải qua ngõ ĐNÁ. Vừa đi qua, vừa ở lại sinh sôi
tại ĐNÁ, cho đến lúc quá đông so với nguồn lương thực có tại chỗ, họ lại phải
thiên di đến miền đất chưa có người ở bắc Đông Á, vì nếu gặp Thái Bình Dương và
về phía nam thì coi như trở về đường cũ, sẽ lại gặp các nhóm cư dân đi trước.
Ngành di truyền học cho phép tính “tuổi” các gien. Người Hán gốc bắc có cùng
một số gien với Bách Việt nhưng là gien trẻ hơn. Họ, Hán- phương- Bắc, có thêm
gien khác vì khi lên đến vùng bắc Hoàng Hà vì hoà huyết (lai) sau đó với những
người cũng đến từ ĐNÁ nhưng bằng đường phía trong đất liền. Tức là người Tàu
bắc và nam đều có tổ tiên là người xuất phát từ ĐNÁ. Tuy có sự pha trộn gien
trong các cuộc di dân, bành trướng, nhưng gien gốc vẫn chỉ ra ai là ông cha ai
là cháu chắt. Và gien chúng ta gần với gien hậu duệ Trăm Việt khác hiện nay
trong vùng ĐNÁ hơn gien Hán.
Nhắc lại, người Tàu cộng, kể cả
khoa học gia, thường phải ép mình theo quan điểm chính thống của nhà nước Tàu
hiện nay, tức là xem dân Hán là một dân tộc đồng nhất (về tiếng nói) quan trọng
về số lượng nhất thế giới ...nhưng chia làm hai nhóm có cấu tạo gien khác nhau:
Hán- phương- Nam và Hán- phương- Bắc. Người Việt hiện nay là Hán- phương- Nam
cùng các dân trăm Việt khác ở nguyên
vùng ĐNÁ. Nhiều khoa học gia khác nói lên sự mâu thuẫn và khiên cưỡng trong quan
điểm này, nhưng nhà nước Tàu hiện nay để phục vụ cho chính sách bành trướng
người gốc Hán, vẫn không muốn những người Hán phương Nam đòi ly khai khỏi gia
đình “ruột thịt”. Thử tưởng tượng nếu đoàn quân Nam Hán này sửa soạn sang đánh
bọn Việt Nam cứng cổ con hoang, thì biết rằng họ là anh em với người Việt nhiều
hơn là anh em với người tộc Hán, họ sẽ nghĩ sao, buông súng “tìm về cội nguồn
xưa ” ? Đòi ly khai để tự mình quyết định một cuộc sống êm đềm, thanh bình hơn
?
Nhưng chúng ta chớ nên mơ màng ảo
tưởng, ông Xi phải lo nuôi họ, phải đưa cuộc sống của họ lên ngang bằng tộc Hán
như đã hứa, nghĩa là tiến về phương Nam, lập vòng đai mới, biên giới mới và lời
hứa hẹn mới!
Nhìn anh em để làm anh cả, đem
ông Khổng Tử ra để đòi có quyền huynh thế phụ, kêu gọi trung hiếu với thiên
triều thì thấy ông quả là người...Tàu.
Chúng ta nhìn bà con Bách Việt,
chẳng phải để đòi hỏi một kiểu ly khai hay chiêu hồi nào đó, chúng ta chỉ muốn
họ được thật sự tự do và sánh bước với thế giới về lương tâm và tri thức, không
mù quáng nghe theo lời đường mật, tự hào một cách quá bộ lạc và ấu trĩ về sức
mạnh phải có của một dân tộc mang tầm vóc quốc tế. Một dân tộc lớn không nhất
thiết phải chiếm hết đất đai của cải thiên hạ, một dân tộc có tầm vóc phải được
lân bang và thế giới nhìn bằng con mắt thân thiện anh em.
2) Hồn thiêng sông núi, bản sắc tộc Việt ở đâu?
Cơn
đau thập tử nhất sinh Việt kéo dài và dồn dập suốt thế kỷ vừa qua.
Khi
xem lại những hình ảnh do người Pháp chụp thuộc địa Đông Dương vào cuối thế kỷ
19 và đầu 20, và nhìn tổng quan cuộc chinh phục qua các mặt chính trị, quân sự,
kinh tế của họ chúng ta ý thức được tình trạng lạc hậu nghèo nàn của người Việt.
Thì ra thoát được gọng kềm của Tàu xưa kia không phải chỉ nhờ vào sức mạnh nội
tại của tộc Việt mà còn vì nhờ vào khí hậu đường xá hiểm trở xa xôi, đồng thời tại
các vùng biên giới này kết quả Hán hoá chưa đến mức hoàn hảo như ngày nay.
Cha
ông ta đã từng “kính nhi viễn chi”, răm rắp thần phục, cống hiến người giỏi và
báu vật hàng năm nhưng giữ khoảng cách, người Tàu vượt qua lằn ranh biên giới là
vua quan dân Việt đồng lòng đánh đuổi, rõ ràng là sáng suốt và khách quan.
Ngày
nay tuy vẫn nghèo, yếu kém so với thế giới nhưng ý thức về bản sắc dân tộc được
rõ nét và lớn mạnh hơn. Giòng máu Việt
là máu Âu Lạc đã pha trộn với máu các tộc Việt khác (có khi cả Hán và Ming,
Mãn là các tộc từng chiếm Tàu và di dân sang Việt Nam khi trở thành người ly
khai với thiên triều) và nhất là các dân
tộc Chiêm Thành, Chân Lạp[63].
Chúng ta ngậm ngùi cho các đất nước đã mất tên này, nhưng linh hồn, bản sắc, vóc
dáng, màu da, nước tóc, máu huyết đã hòa lẫn để chúng ta là người Việt Nam, gốc
Đông Nam Á.
Không
cần phải leo lên Thái Sơn ngạo mạn nhìn xuống “một con đường, một vành đai, hay
xin chút gien Hán, không cần “mượn sông”, mướn mỏ, thuê rừng, cướp biển, hay phải
nắm tay TQ mới nghe mình lớn mạnh, chúng ta chỉ cần đi ngược thời gian, chỉ cần
nhìn lại kết quả phân tích DNA để nói rằng nếu Trung cộng đưa cổ sử thì ta (mà
họ cũng đã biết) cũng nói được rằng tộc Việt đã có mặt từ cổ đại, năm mươi ngàn
năm về trước, trên vùng đất họ ở ngày nay, lâu hơn và cũng là nơi có gốc của tộc
Hán trước khi Hán pha trộn với di dân phương bắc Đông Á. Nhưng người Việt nói
con hơn cha là nhà có phúc. Người Tàu nói quân xử thần tử, thần bất tử bất
trung. NgườiViệt không giết con gái sơ sinh, người Việt thờ mẹ như thờ cha,
không bắt phụ nữ bó chân từ hàng ngàn năm trước. Người Tàu nói nhứt sĩ nhì
nông, người Việt nói hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ.
Không
có lý do chính đáng trọng đại (lý do của cải vật chất còn tệ hại hơn) để quỳ gối
dưới chân người Tàu để làm gạch xây tường thành che chắn bảo vệ họ, xây đường
cho họ đi.
Chúng ta phải thay đổi thế nào, cải tiến
làm sao cho qua khỏi cơn nguy này ?
Người
lớn tuổi chữa lành cơn bệnh cũ, săn sóc vết thương xưa để cùng nhau đưa con trẻ
ra khỏi hiện tại bức bách. Ra khỏi quá khứ mới thấy rõ hiện tại. Gốc rễ mấy
ngàn năm không dễ gì tận tuyệt, nếu chúng ta không tự tay cắt đứt, ngoảnh mặt
làm ngơ.
Chỉ
mới vài năm dân Việt gửi con gái đi làm dâu Hán ( và tộc Việt phương Nam cũ)
tuy chưa hòa huyết, chưa mất tiếng nói mà đã mất lòng tự hào “nghèo cho sạch
rách cho thơm”, ăn cắp, xảo quyệt, lường gạt thiên hạ hơn cả người Tàu. Phải
nói là có gien Hán trong hành động nhiều hơn cả người Hán! Chỉ gần đây thôi ta
mới cướp giựt lộ liễu, đi ăn cắp, làm hàng giả, lường gạt...
Chúng
ta cố tin rằng đây chỉ là những hành động đơn lẻ (tuy rằng đơn lẻ ngoại lệ thường
khẳng định mẫu số chung), chúng ta biết đớn đau, xấu hổ là chúng ta còn bản sắc
Việt.
Nhìn
lại thực tế trước mắt, trong chừng mực nào đó những người con gái nghèo đất Việt
bỏ xứ đi lấy chồng Tàu, trong nhờ đục chịu vì chẳng có giải pháp nào khác. Đục
hơi nhiều vì đa số anh Tàu ế vợ đều là nông dân dốt nát, bệnh tật.
Những
người con trai Việt bỏ gia đình cha mẹ vợ con nai lưng đi làm công nhân, thứ
công dân nô lệ mới cho các hãng xưởng lớn, mang nhãn...Tàu. Nhưng không lẽ gái
Việt đi lấy chồng Việt, tuy ...dễ thương, biết ngâm thơ Kiều, ca Lục Vân Tiên,
vọng cổ, biết chiều vợ thương con, nhưng lại...thất nghiệp? Nào phải ai cũng được
là con cháu đảng viên đi du học Âu Mỹ Úc hay đủ điểm (thi vào trường giỏi hay
trường dạy làm công an, lý luận mác xít ?) Nào phải ai cũng muốn đi làm CSGTchận
xe thu tiền phạt hoặc làm an ninh, trà trộn với du côn đi đánh bắt mấy đứa “phản
động” trốn thuế lại ưa nhóm họp biểu tình đả đảo chặt phá cây xanh, đả đảo
Trung Quốc xâm lược ? Nào phải ai cũng dễ dàng ký hợp đồng cho bọn Tàu vào nước
Việt khai thác rừng, lấy gỗ, lấy quặng, xây căn cứ? Nào phải ai cũng dễ dàng tự
tay mời gọi, ký giấy trao đổi, mua bán, học tập đủ ngành nghề, lãnh vực với người
Tàu?
Nhưng
trời hỡi sao không gởi gấm ước ao, hy vọng vào chính mình hay ai khác mà lại nhằm
tướng cướp mà trao duyên? Đâu rồi kinh nghiệm ngàn năm tiên tổ? Đâu rồi quả
báo, kinh nghiệm nhãn tiền trơ trơ trước mắt?
Chúng ta cần thức dậy mà đi. Chúng ta cần nhớ
đến tiền nhân, tiên tổ, cần rũ sạch cái áo Tàu, bụi Tàu, nhìn ra thế giới để học
hỏi bắt chước cái hay, cái tốt. Chúng ta cần lấy đạo lý con người nói chung chớ
đừng ca tụng cái đạo lý Tàu mà chính họ đã từng phá vỡ. Chúng ta cần hướng về
Chân Thiện Mỹ của con người, không phải chỉ của Tống Nho mà Trung Cộng dùng để
mỵ dân gạt người. Chúng ta cần giàu mạnh bằng chính bàn tay và khối óc tộc Việt
để khỏi bị ai bức hiếp nhục nhã như các cụ Phan (Chu Trinh/Bội Châu) đã dặn dò
vào thế kỷ 20.
Có
người đòi thoát Việt cộng trước khi thoát Trung Cộng. Có người đòi hợp tác với
Việt Cộng mới đủ sức thoát Trung Cộng. Đòi là một chuyện, thực hiện được không
mới đúng là câu hỏi phải đặt ra với tất cả những hệ luỵ đến với câu trả lời.
Thoát
Việt cộng cách nào đây, khi ta biết rằng Trung cộng đã giăng bẫy, mai phục khắp
nơi sẵn sàng tiếp tay Việt cộng bắn giết dân Việt. Chúng sai côn đồ (thất nghiệp,
du đảng, tội phạm hình sự vùng biên giới nam Tàu sang trà trộn với đoàn quân cảnh
sát công an bản xứ) đánh bắt tất cả những ai dám lên tiếng chống đảng, chống
xâm lược. Chưa bị ngưng trả lương thì họ sẽ tiếp tục làm lá chắn, làm gươm đao,
thiết bảng, dùi cui. Chưa nói đến việc cùng là cộng sản như nhau, có khi gien cộng
sản tàn ác kiểu Stalin này mạnh hơn cả gien...phát xít.
Cho
dù Việt Cộng tuy sắp hết tiền để trả lương cho đảng viên, công chức, nghĩa là
guồng máy sắp hết chạy, nhưng họ nắm trong tay bảng điều khiển vận hành guồng
máy. Phải nghĩ là còn rất nhiều người còn tin tưởng ở tài năng ...đột biến đột
xuất của đảng vào giờ phút này.
Trừ
phi Trung cộng kéo xe tăng, đổ tiền, tháo nước ngọt vào đất Việt, và hứa hẹn
chia đôi biển Đông, chia đôi giếng dầu, chia đôi tiền mãi (hải) lộ. Cái này mới
thật sự đáng gọi là “đàm phán song phương ” nhưng đố ai dám tin lãnh đạo Tàu ?
Ngoài ra chúng ta còn các bạn láng giềng khác nữa cũng đang đòi quyền lợi ở biển
Đông. Không thể nắm tay Tàu ức hiếp các nước bạn hoặc ngược lại cùng họ hợp lực
chống Tàu.
Nhưng
diễn tiến tình hình có thể đưa đến cơ hội (hay đến đúng theo kế hoạch âm mưu Tàu)
cho ông Xi ra tay nghĩa hiệp cứu vớt lãnh tụ (và dân)Việt ? Như vậy đảng này phải
coi chừng ! Bán đảng viên và công chức luôn cho Tàu, đảng sẽ hết còn gì để bán
!
Không
thể quên rằng đất nước đi đến tình trạng nguy nan ngày nay cũng là do lỗi đảng
bị kẻ thù ru ngủ, quá tin vào anh em không cùng họ, chẳng cùng gien, quá tin
vào chủ nghĩa cộng sản, quá tin vào bàn tay và bộ óc của mình, quá ngạo mạn,
tham lam, không biết độ lượng và thương yêu đồng bào.
Nhưng
đây cũng là một cơ hội để toàn dân và nhất là (một số) đảng (viên) suy nghĩ tìm
giải pháp cứu nguy đất nước, đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên lòng sợ
hãi và quyền lợi riêng tư của mình, của đảng.
Những
người ký mật ước hay công hàm bán nước không phải là họ bây giờ mà là những người
đi trước. Tội lỗi những người này, dân sẽ biết, sử sẽ ghi chép. Có nên hy vọng
là nếu chúng ta có những... Yeltsin của Nga thuở nào, và nhất là những công
nhân, thanh niên Ba Lan, Tiệp, Đông Đức vài mươi năm trước đây, thì người Việt sẽ
tạo được cơ hội giúp đảng (mới, lãnh tụ mới ?) lấy công chuộc tội,...ra tay lật
đảng cộng sản, lập thể chế mới, dân chủ, đa nguyên ? Chắc chắn nhân dân sẽ đồng
lòng ủng hộ và hy sinh nếu đảng này hô lớn : toàn dân nghe chăng sơn hà nguy biến ? Và họ phải thề đưa dân tộc
trở lại thời huy hoàng độc lập tự chủ từ hơn 800 năm về trước như những Trần
Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão và hai bà Trưng, Lê Lợi... ?
Giấc mơ này coi bộ khó đạt hơn nhưng đỡ tốn
hao xương máu và dễ làm đối với đảng mới thoát thai
:
thử tưởng tượng không những có tên ghi vào lịch sử, mà họ sẽ còn được dân biết
ơn, ca tụng và yêu thương thật sự, có thể ra ứng cử vào những vị trí quan trọng
và được toàn dân bỏ phiếu thuận để còn quyền điều khiển vận mạng đất nước mà
không cần dùng bạo lực. Nhưng đây là lý luận ngây thơ bởi vì kẻ bán nước, muốn
giàu sang cho bản thân và gia đình đổi lại thân phận nô lệ cho cả một dân tộc
thì cách nào mà lay động được nơi họ tự tình dân tộc, lòng yêu quê hương ? Trái
lại sẽ có lý hơn nếu tin tưởng mãnh liệt rằng đa số người Việt, như đa số con
người, đều lựa chọn những nhân cách tốt đẹp, hướng thượng để lãnh đạo đất nước.
Ôi, cách nào cũng khó như đòi phép màu huyền diệu, như đòi gặp rồng tiên nguyên thuỷ. Nhưng quyền
quyết định và sức mạnh nằm trong tay 85, 90 triệu người Việt chứ không phải đảng
và vài ba triệu đảng viên. Sức mạnh của tuổi trẻ và tâm thức, tinh thần Việt
này còn tiềm tàng, lẩn khuất, con dân Việt nào chưa bi quan tuyệt vọng phải biết
cùng nhau khơi dậy, nuôi nấng để tìm ra giải đáp.
Cùng
một lúc phải tìm cách làm sao cho càng nhiều người Việt nuôi dưỡng và ý thức rõ
ràng về bản sắc, vị trí, lòng tự hào dân tộc, nắm vững tình hình, tiềm lực khả
năng đất nước trong quá khứ cùng hiện tại, thấu hiểu và hình dung được hậu quả
tai hại cực kỳ của sách lược chính trị của các lãnh tụ Việt qua hàng ước bí mật
này, về tính mạng ngàn cân treo sợi tóc, về cơn nguy thập tử nhất sinh, cận kề
của nước Việt ngày nay.
Trong
khi chờ đợi những người con Việt, trong nước và thế giới, chuyên gia về giáo dục,
luật pháp, khoa học, kinh tế, quân sự, xã hội, chính trị cùng nhau soạn thảo những
giải pháp, sách lược cụ thể[64], tìm cách liên kết với
lương tâm thời đại cùng bạn hữu khắp nơi, kể cả con cháu dân tộc Hán biết suy
nghĩ, có tâm thức lương tri của con người hiện đại sống trong thế kỷ 21.
Chúng
ta cũng phải biết tự đổi thay và chuyển hoá để cùng nhau đoàn kết, yêu thương
nhau, vượt qua sợ hãi tị hiềm, chung lòng nghĩ đến quê hương và đặt sự sống còn
đất nước lên trên tất cả tranh chấp và khác biệt về mọi phương diện giữa chúng
ta. Đó là điều kiện quan trọng nhất và đầu tiên để tiến tới một hội nghị Diên Hồng.
Không có vua, không cần vua. Bởi vì sẽ không còn một cơ hội nào khác nữa đâu.
Phan Thị Trọng Tuyến
14/12/2015 mừng Việt Khang mãn hạn
tù, về với chúng ta.
Sửa lỗi tháng 6 2016 đồng hành đòi trả tự do cho Trần Huỳnh Duy Thức
Và tháng 8 2017 tiếp tục đòi tự do cho THDT và tất cả tù nhân chính trị Việt Nam.
Bài viết dài, xin cảm ơn độc giả vui lòng chịu khó đọc và chỉ dẫn những lỗi lầm vế hình thức lẫn nội dung. Đa tạ.
[1] Lò điện nguyên tử 100% Tàu vừa ký bán
cho Argentine ( China National Nuclear
Corporation)
[2] Bỏ xuống dưới đây các đóng góp khác để
chúng ta bớt tủi hổ : giải Nobel văn chương và Y học người China đem về cho nước
họ trong thập niên này. Nhưng năm 2015, Charities Aid Foundation (CAF) đã xếp Tàu cộng hạng chót về lòng nhân (làm việc từ thiện) WGC (World Gìvng Index) trong số 140 hay 145 quốc gia (chiếm 96% dân số thế giới). Bảng xếp hạng dựa vào 3 điều thực hiện cho chỉ số : cho tiền bạc, giúp đỡ người xa lạ và làm việc thiện nguyện, công ích xã hội. Đứng đầu là Miến Điện. Năm nay chắc Miến sẽ bị tụt hạng vì việc đánh đuổi dân Rohingya. Nhưng việc này có đưọc tính vào cách đánh giá chỉ số nói trên?
[3] Nhưng bị nước Việt của Trần Thái Tông
đánh bại.”Thái Tông ngự thuyền đến hỏi Thái úy là Trần Nhật Hiệu. Nhật Hiệu
không nói gì cả, cầm sào viết xuống nước hai chữ "Nhập Tống". Thái
Tông lại đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ. Thủ Độ nói rằng: " Đầu tôi chưa rơi
xuống đất, thì xin Bệ hạ đừng lo! ".
[4] Wikipedia.org/wiki/Chiến_tranh_Nguyên_Mông-Đại_Việt_lần_2
và lần 3
[5] Hồng Kông,
Macau, nửa hai đảo Tababarov và Bolshoi
trên sông Amur thuộc Nga từ 1929 ; Trung cộng chiếm được nhiều đất thuộc
lãnh thổ Kyrgyzstan, Tajikistan và Kazakhstan bằng áp lực; đòi nhiều vùng
đất ở biên giới các nước Ấn, Nepal !
[6] ...Phải tính đến 1 Nobel văn chương ( văn
sĩ ly khai đem về danh dự về cho Pháp) và giải Y khoa năm nay, thiên hạ thán phục
không có nghĩa là kính trọng yêu mến, nói đúng hơn là sợ hãi, gờm mặt, e dè. Họ
hiểu rõ mặt trái của phồn thịnh nước Tàu, khoảng cách giữa giàu nghèo, giữa thành thị và nông thôn. Họ biết rõ các phương
cách kể cả bá đạo người Tàu dùng để đạt mục đích qua những tài liệu sách vở
nghiên cứu về thành quả cách mạng văn hoá, cải cách ruộng đất, kinh tế, về
chính sách sai lầm gây nạn đói hàng triệu người chết. Sự tàn ác này khiến lãnh
đạo Tàu sẵn sàng sát một triệu nhân mạng cho một tỉ còn lại sống ngoan ngoãn.
[7] Có người
tố cáo là ổ gián điệp Tàu. Trên thực tế họ trưng bày thứ văn hóa Tống Nho từng
bị đả phá chôn vùi từ những kế hoạch ngũ niên đầu tiên của thể chế cộng sản,
tuy không thể là mẫu mực đáng noi theo cho các nước Tây phương (các nước này
xem đó như một thứ folklore cũ kỹ), nhưng có thể có hiệu quả cho các nước nghèo
và chậm tiến như Việt Nam (Lào, Thái Lan...chư hầu tương lai). Đảng csVN, và
bác Hồ Chí Minh của họ có nhiều khẩu hiệu, khẩu quyết vô cùng Tống Nho : trung
với đảng, hiếu với dân. Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.Đất
có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính Thiếu
một mùa, thì không thành trời.Thiếu một phương, thì không thành đất Thiếu một đức,
thì không thành người .
Dĩ
nhiên chư hầu nên ngoan ngoãn trau giồi các đức tính này còn chủ nhân Hán thì tự
miễn.
[7] Trung Cộng có hơn 14000 km đường biển nhưng đối mặt với
biển này là quần đảo Nhật, Tàu khó lòng tự do tung hoành ?
[9] Người Việt khác tộc Hán ở chỗ ít miệt thị khinh khi
lân bang, họ không gọi hàng xóm là nam man, con hoang hay cẩu tặc...
[10] Tin chính thức hơn 157 000 bị giết tại miềnBắc
năm 1954, sau 1975 tại miền Nam khoảng
65 000 đến 100 000 bị xử tử trong hai năm 1975-1976 và hơn một
triệu người đi tù, nhà cửa, tài sản bị cướp ( tài liệu Wikipedia).
[11] Ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc....(Lê Duẫn), người Tibet, Ouïghour
(không thuộc giống Hán)..cũng chết thảm không kém, xin xem phần sau
[12] Khoảng 3 triệu mất vì chiến tranh, ba triệu trốn khỏi
Việt Nam trong đó một triệu bằng đường biển ( khoảng 200 000 hay 250000
người chết ( theo nguồn Radio Canada chỉ trong 2 năm từ 1979-1980, nước Canada cứu trợ tiếp nhận 60 000 thuyền nhân- số thật sự về người chết trên biển có lẽ lớn
hơn (tài liệu Wikipedia). Pháp và Mỹ : hơn 2 triệu qua các đợt nhận
người Việt tỵ nạn từ 1975 đến 1995 và về sau nữa. http://www.unhcr.fr/4ad2f957e.html
[13] Trong khi chính trị gia, doanh nghiệp Tàu đi khắp nơi
chào hàng, thu mua, không ngần ngại chìu chuộng nịnh nọt gia
chủ, còn một số người Việt lại đi buôn lậu, ăn cắp, đi làm vợ kiêm nô dịch, đi
làm công nhân cho người bóc lột sức lao động. Còn Quan gia cộng sản thì quá sức
oan gia : ăn cắp của công, xài tiền dân, và vào hoàng hôn nhiệm kỳ thì đi
chuyến tàu vét, đưa của cải, con cái ra ngoại quốc vân vân...
[14] Xây dựng căn cứ quân sự trá hình nơi các địa điểm chiến lược quan trọng
của Việt Nam. Thí dụ tại vùng núi non hiểm trở phía Bắc sau khi đánh chiếm vùng
biên giới Việt Nam, người Tàu đã xây căn cứ quân sự nơi mà ngày xưa cha ông họ
chật vật vất vả đi qua khi muốn mượn đường đi đánh “ai” đó. Từ các căn cứ trên
các đảo cướp của Việt và Phi, lính Tàu phải đi từ 270 hải lý đến 720 hải lý mới
về tới quê nhà Trung cộng đại lục, mà thò tay qua đất Việt chỉ 190 hải lý. Từ các
tỉnh Bình Dương, Cà Mau, Vũng Áng vân vân khi ra ngoài để khuất phục dân Việt tại
thủ đô hay căn cứ quân đội công an Việt, họ chỉ cần đi bộ, nhiều lắm là đi...xe
đạp. Dĩ nhiên đây là nói theo cảm tính. Sự thật còn kinh hoàng áo não hơn : họ
đã ở lẩn lộn trong xóm làng Việt, các tổ chức dân sự, quân sự, lẩn vào cả những
nhóm viết sử, làm sách giáo khoa, soạn chương trình giáo dục, thi cử...(theo
tin tức tổng hợp trong nước)
[15] Trao đổi, giúp đỡ văn hoá là họ vào chùa chiền Việt
sơn phết tượng, thoa son, quét móng, vẽ chân mày như phường tuồng và viện trợ
hay bán rẻ mấy tượng Quan công, ông Thiện ông Ác, tượng sư tử kỳ lân rồng rắn sặc
một kiểu Tàu duy nhất, thậm chí dám thay thế tượng thờ tiền nhân Việt bằng quan
Tàu, dán cả bùa chú trấn yểm phong thuỷ long mạch. Một màu đỏ Tàu rất Tàu rất đỏ
bao trùm khắp nơi. Du côn thất học khát máu gốc Tàu len lỏi vào công an, quân đội;
các gián điệp và trí thức Tàu biết nói tiếng Việt mai phục hay trà trộn vào guồng
máy hành chánh, giáo dục, phá hoại xã hội và truyền thống Việt Nam bằng mọi
cách. Từ cả chục năm trước và cho đến gần đây những tiếng báo động vang
lên khắp nơi : giáo sư Hoàng Tụy, giáo sư
Nguyễn Huệ Chi, tiến sĩ Nguyễn Quang A, nhà giáo Phạm Toàn ..., các nhà dân chủ,
cựu tù nhân lương tâm, cựu viên chức ngoại giao, thanh niên sinh viên và người
dân bị áp bức trong nước hoà với tiếng lòng hải ngoại của Huỳnh Văn Lang, Nguyễn Trọng Kha, Châu Tiên Khương
...Tâm trạng tức giận, đau buồn, bất lực...này nói lên cảm nhận tình thế hiểm
nghèo nguy nan bên bờ vực thẳm tiêu vong của dân tộc.
[16] Xem Chính Đề (Ngô Đình Nhu)
[17] Lực lượng chính chống trả lúc ban đầu là dân quân (tân
binh) địa phương, quân đội chỉ có vài sư đoàn, tỉ lệ 1 chọi 5. Xem phần sau bạch
thư và sách vở Việt Nam tố cáo Trung Cộng xâm lược. Các tài liệu này không còn
được tự do phổ biến. Phải tìm trên mạng. Xem nhiều bài trên: https://dinhtanluc.wordpress.com
[18] Hán phương Bắc và Hán phương Nam ? Chúng ta sẽ
xét đến điểm này trong phần sau.
[19] Trước đây chỉ người gốc Hán lấy vợ vùng tự trị mới được
phép có 2 đứa con và được nhiều dễ dãi, trợ cấp trong đời sống.
[20] Tiền hối lộ cho ông Đỗ Mười (bao nhiêu để ông đem tặng
cho viện mồ côi 1 triệu đô la ?), Lê Khả Phiêu ( xem phóng sự hình“mênh mông tiền dân ”), Nguyễn Tấn Dũng (dự án
Bauxite) ...còn các cá mập khác thì chưa được công bố. Cá con và tép riu cũng
đưọc ít nhiều vụn bột. Còn đầu trâu mặt ngựa, cắc ké kỳ nhông,
tấm khiên lá chắn có lẽ chỉ còn mỗi một cách
là ăn lương bèo trấn lột nhân dân anh hùng.
[21]
Người Tibet, Tân Cương lưu vong tố cáo
Tàu đã thử bom và chôn rác nguyên tử trên đất họ.
[22] Biên khảo lịch sử, tác giả Phạm Việt Châu. Xem kệ sách
ebook: Giống Bách Việt, trong đó có Việt Nam ngày nay, sống từ lâu tại phía Nam
Dương Tử, bị tộc Hán ức hiếp, xâm chiếm, cai trị trong suốt nhiều thế kỷ, một
phần cư dân phải nhiều lần thiên di dần về phía cực nam Dương Tử,
và xuống Nam Đông Nam Á, hoà huyết sống chung với các cư dân cổ để trở thành
các nước Thái, Miến, Cam Pu Chia, Lào, Phi Luật Tân, Mã Lai Á, Nam Dương ngày
nay. Riêng tộc Lạc Việt ở cực nam nước Tàu đã hoà lẫn với Chiêm Thành và một phần
Phù Nam để trở thành Việt Nam. Các nước mới này nhiều thăng trầm lịch sử nhưng
tất cả đều đứng vững, độc lập, tăng trưởng, bản sắc hình thành khẳng định riêng
lẽ. Ngày nay, một lần nữa với vị trí chiến lược, thương mại, kinh tế mới, tất cả
lại bị tộc Hán dòm ngó và đã ra tay lũng đoạn, tàm thực. Một công trình nghiên cứu công phu và nhiều giá trị nhờ cái nhìn
sáng suốt và xuyên suốt tình hình lịch sử kinh tế chính trị. Người đọc cảm nhận
được tấm lòng Lạc Việt và tâm hồn Bách Việt của một nhà nghiên cứu trong quân đội
miền nam thời VNCH
[23] Gió thổi lung tung đủ chiều trong các bài đọc của
ngài, đa phần là làm mát lên hy vọng, xin bái phục (các) quân sư viết giùm diễn
văn!
Biết đâu các lãnh tụ Việt thi hành kế hoạch của Câu Tiễn
(Bách Việt) ngày xưa : tự mình cúi đầu ngậm nhục (nằm n(gai)...vàng, nếm mật..gấu),
cho đầu...gấu đánh người đòi công lý, để tàu lạ cướp cá cướp ghe giết cả dân
chài. Không được quân tử ...tàu cho lắm.
[24] Việt Khang mãn hạn tù ngày 14/12/2015
[26] Ngục trung nhật ký là thơ người khác (gs. Nguyễn Hữu Mục ),
Hoàng Khoa Khôi, Thụy Khuê còn đi xa hơn nữa khi cho biết những bài văn, bài
báo (như Bản án thực dân) viết tại Paris những năm 1924 là do Phan Văn Trường,
Nguyễn Thế Truyền viết ra với đóng góp của Phan Chu Trinh. Ông Hồ khi đó chỉ giữ
vai trò bình phong che mắt mật thám và chính quyền mẫu quốc Pháp.
[27] Họ đã chẳng qua lại mua bán thuê đất rừng nhà máy, thi
hành các mật ước, thoả ước chính thức ký ...sau lưng dân Việt?
[28] Xem chú thích 16
[29]
Danlambaovn.blogspot.fr/2015/11/ke-hoach-cuop-nuoc-va-ban-nuoc-hoan-hao.html
[30]lhassa.org/histoire-du-tibet/accord-en-17-points.php,
hiệp ước 17 điẻm
[31] Xem tài liệu của nhà cầm quyền VN sau cuộc tấn công Trung Cộng tại
biên giới phía bắc VN: Sự thật về quan hệ Việt Nam- Trung Quốc :
dinhtanluc.wordpress.com/303. Xem ct 35.
[32] Nguyễn Huệ Chi : « Nhà thơ Vương Bột thời nhà Đường của Trung quốc cũng từng
nói: “Leo lên đỉnh núi Thái để
nhìn các núi khác, sẽ nhìn thấy được những điều mình chưa thấy qua”.https://levinhhuy.wordpress.com/2015/11/06/cau-tho-vuong-bot/ Đó là một câu văn, không phải câu thơ, và ở trong thiên khảo luận Bát quái đại diễn luận của Vương Bột. Nguyên
cả câu là: 據滄海而觀眾水.則江河之會歸可見也,登泰山而覽群岳,則岡巒之本末可知也
Cứ thương hải nhi quán chúng thủy, tắc giang hà chi hội qui khả kiến dã; đăng Thái sơn nhi quán chúng nhạc, tắc cương loan chi bổn mạt khả tri dã. (Hãy đứng nơi biển cả để quan sát các dòng chảy, sẽ biết các sông rạch tụ về đâu; hãy lên núi Thái để nhìn các núi non, sẽ thấy được các đèo dốc nhấp nhô mà ta chưa từng biết) Tập đã ngắt vế trước hàm nghĩa nước chảy về nguồn đi, “ý tại ngôn ngoại”... »
Cứ thương hải nhi quán chúng thủy, tắc giang hà chi hội qui khả kiến dã; đăng Thái sơn nhi quán chúng nhạc, tắc cương loan chi bổn mạt khả tri dã. (Hãy đứng nơi biển cả để quan sát các dòng chảy, sẽ biết các sông rạch tụ về đâu; hãy lên núi Thái để nhìn các núi non, sẽ thấy được các đèo dốc nhấp nhô mà ta chưa từng biết) Tập đã ngắt vế trước hàm nghĩa nước chảy về nguồn đi, “ý tại ngôn ngoại”... »
[33] Xem bản đồ Tàu vào đời nhà Đường hay thế kỷ 16, 17 và bản đồ thủ
tướng Đức Angela Merkel đã trao tặng cho ông Xi khi ông qua mua máy bay! Trong
đó không có các đảo bị Tàu chiếm đóng hiện nay. Bà còn là lãnh tụ người Âu duy
nhất dám tiếp đức Đạt Lai Lạt Ma khi ông sang viếng Âu châu.
[34]
Năm nay
2015
[35]
ijavn.org/2015/11/loi-noi-doi-vi-ai.html. Thật mỉa mai : khi Tàu
« khuyên » người Việt làm theo nguyện vọng của Tàu là quên chuyện biển đảo,
thật không thể không nghĩ đến chuyện Hà Nội cũng « thiết tha kêu gọi»
khúc ruột ngàn dặm hãy bỏ qua "định kiến và mặc cảm" với nhà cầm
quyền để cùng tiến tới tương lai theo hướng...Tàu định.
[36]
Trong tài liệu Sự thật về quan hệ Trung
Quôc -Viet Nam trong 30 năm qua : dinhtanluc.wordpress.com/387/ rõ
ràng nhà cầm quyền VN, với Lê Duẩn thời đó, tố cáo với nhân dân VN rằng TQ luôn
hành động, ép buộc để VN bị chia cắt,
và 2 nước Việt đánh nhau liên tục, để bị suy yếu và tuỳ thuộc vào TQ.
Những khí giới TQ đem sang cho miền Bắc dùng đánh miền Nam và đánh Mỹ xưa kia
nay được đem ra kể ơn và đòi nợ.
[37] Thầy Thích Không Tánh kêu lên “ giặc đã vào nhà, vận
mệnh Tổ quốc lâm nguy“ : www.ghpgvntn.net
[39] Chú thích 13
[40] Cổ sử Việt ghi theo Tàu, mà Tàu đô hộ xâm lăng Việt bao nhiêu lần,
viết sửa lại lịch sử là nghề của chàng, nhưng chúng ta cũng có thể tự hỏi tại
sao không Thần Nông là tổ của Bách Việt, đã khởi đầu việc trồng lúa thay vì hái
lượm, tại vùng này với phong thổ khi hậu
thuận lợi ? Người Tàu khám phá tại Hemudu thuộc Triết Giang, nhiều nông cụ,
vật dụng và luá gạo xưa, cổ nhất thế giới, một thủ phủ của Bách Việt thời cổ đại ?.
Giống người cổ ở đây có các tượng ( thờ ?) người mắt to, mũi lớn, giống
như dân vùng hải đảo Đông Nam Á ngày nay, chứ không cao lớn trắng trẻo đẹp trai phương bắc kiểu ông Xi : bề thế, mắt hí,
mí bụp, má húp, cổ rụt.
[41] Đế quốc Anh Pháp Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha (néerlandaise,
portugale, espagnole) bằng đường biển, cướp nhiều vùng trên vòng đai Thái Bình
Dương tại các nước Nhật,Tàu,Tích Lan,
Nam Dương, Ấn Độ, Nam Mỹ...
[42] Xem chú thích 8 trên đây
[43] Xin lại được nghi rằng :
biết đâu các vị này ngoài mặt đánh đá giành giựt chức quyền để
che mắt người Tàu, thực chất lại là bắt
chước Câu Tiễn ngàn xưa, khom lưng, nếm nhục chờ ngày thoát Trung ? Vật
thì s..u..ỵ..t xin chớ nên dịch đoạn này ra tiếng Tàu !
[44] 16 triệu km2, 16 quốc gia, hầu hết là thuộc địa, coi nữ
hoàng Anh cũng là nữ hoàng của mình,
nhưng bà chỉ giữ vai trò tượng trưng. Họ hoàn toàn tự do tự chủ về chính sách
kinh tế, giáo dục, quân sự văn hoá vân vân
[45] Đây cũng là con dao hai lưỡi cho Tàu : Vùng đạo Hồi và các
dân tộc anh em bao quanh
cũng cùng tôn giáo, trong hoàn cảnh Hồi giáo quá khích hiện nay, mọi hành động
đàn áp người Hồi tại Tàu có thể được diễn dịch nguy hiểm ngoài ý muốn người
Tàu.
[46] Nơi đây xin tỏ lòng biết
ơn những bậc tiền bối cận đại, như Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Vương Hồng Sển,
Nguyễn Hiến Lê... cho đến gần đây hơn Phạm Văn Sơn, Phạm Việt Châu, Tạ Chí Đại
Trường...và những vị thầy cô không danh tiếng nhưng vô cùng gần gũi và có ảnh
hương, từ tiểu học qua trung học đã dạy chúng tôi lịch sử và văn hoá Việt Nam
(ít ra từ quan điểm miền Nam : không hề sợ Tàu ! ).
[47] Kim Dung, người vùng Triết Giang, vốn là một người Tàu Hoa Nam,
đăc biệt « ưu ái » các dân tộc vùng Nam Dương Tử giang, nghĩa là thuộc
Bách Việt xưa. Các nhân vật chính tà do ông dựng lên đều đến từ những tiểu quốc
thuộc nhóm Bách Việt này, Khiết Đan, Đại Lý, Liêu vân vân đã bị nuốt và Hán hoá
từ lâu, nay sống lại dưới ngòi bút Kim Dung, tuy cổ quái tính tình dị hợm nhưng
người nào cũng được độc giả lưu ý với ít nhiều cảm tình.
[48] Nỗi
băn khoăn của Kim Dung, Tiểu luận, Nhà xuất bản Văn Mới, Sài Gòn 1972,
http://nguyenmonggiac.info/noi-ban-khoan-cua-kim-dung.html
[49] Diễn dịch thứ nhất là đảng cộng sản Tàu lãnh đạo 4 “giai cấp”
sĩ nông thương và binh (lính). Cộng sản mà chia đến 4 giai cấp thì thiệt là vô
lý/ vô duyên, vi thật sự theo đảng chỉ có hai giai cấp là nhân dân và đảng, nên
xin tạm nhận cách thứ nhất, để làm trục xoay quanh cho bài viết này
[50] 16
chữ vàng và 4 tốt : nguyên văn không nhắc ở đây, chỉ ghi lại bản dịch đúng
nghĩa Láng giềng độc ác. Cướp đất toàn diện. Lấn biển lâu dài. Thôn tính tương lai
[51] Hiện nay vì vấn đề Hồi giáo cực đoan, họ nới lỏng ràng buộc để
không phải (mang tiếng) khiêu khích những quốc gia Hồi giáo tự do khác.
www.lhassa.org/histoire-du-tibet/accord-en-17-points.php
[52] Dr Rebihya Kadeer còn tuyên bố thêm : « họ chiếm lấy
truyền thống ẩm thực và âm nhạc của chúng tôi,
tuyên bố là của Tàu. Họ tuyên bố có lịch sử 5000 năm, chúng tôi có thể
nói ngọn nguồn chúng tôi còn xưa hơn nữa »
[53]
Tháng 10 năm 1949 vừa lập quốc, đầu năm 1950 Mao Zedong tuyên bố sẽ giải phóng
Đài Loan, Tibet và Hải Nam ; cuối
năm Mao đưa 84000 quân vào Tibet. Quân đội Tibet phải 1 chọi 10, bị đạo quân
nhân dân xâm lược và thiện chiến đè bẹp nhanh chóng
[54] Hốt Tất
Liệt sau khi dẹp yên nhà Nam Tống, lập nhà Nguyên, cai trị trên toàn cõi Tàu thời
đó, không mang gien Hán nhưng vẫn mưu toan chiếm nước Đại Việt của
nhà Trần để trả thù lần đại bại trước.
Như ta biết, quân Nguyên hai lần sau này cũng bị Hưng Đạo Vương của Đại Việt
đánh không còn manh giáp thời Trần Nhân Tông, con Hốt Tất Liệt là Thoát Hoan
chui vào ống đồng chạy về Tàu.
[55] Tượng
Quận, Quế Lâm xưa kia bị nhà Hán cai trị chia thành quận huyện
[56] Kubilai (Hốt Tất Liệt) năm1257 chưa lên ngôi nhưng cũng đã cho Uriyangqadai
(Ngột Lương Hợp Thai) đem quân đánh chiếm được Đại Lý, rồi tiện đường đánh Đại
Việt lần thứ nhất dưới thời Trần Thái Tông,
với hơn 4 vạn quân trong đó có phò mã Hoài Đô, 50 vương tướng Mông Cổ và 2 vạn
người Đại Lý thống lĩnh bởi hàng vương Đại Lý Đoàn Hưng Trí, bị quân tướng Việt
đánh bại (theo wikipedia)
[57] Cha
Nùng Trí Cao là Nùng Tồn Phúc bị vua Lý Thái Tông giết, nhưng vua tha mạng Nùng
Trí Cao và mẹ, sau này lớn lên Cao chiếm Quảng Tây, Quảng Châu gộp với Đại Lý
đổi tên thành nước Nam Thiên « dưỡng
quân và làm các chiến thuyền sửa soạn đánh Quảng Châu lần nữa và cương quyết
lập một nước độc lập với tên hiệu là Nam Việt
tại thủ phủ Quảng Châu. Từ Việt đã
cho thấy vẫn còn khêu gợi và hấp dẫn, của các giống dân vùng Lĩnh Nam mà Nùng –
Zhuang là một nhánh Bách Việt » Về sau con và mẹ Cao bị quân Tống giết chết.
Còn Cao cũng chết nhưng không rõ vì sao. Ông được dân Choang sùng kính. Nhưng
người Tàu không xem nước Nam Thiên là một quốc gia độc lập, như đồng thời Đông
Âu, Tây Âu, Mân Việt và Nam Việt nhưng ngàn năm sau (1997) Nùng Trí
Cao được phong (« thần ») anh hùng ...Trung Hoa, chắc là để dân Choang càng mau quên cội nguồn Bách Việt,
không lợi dụng đòi...ly khai.
http://nghiencuulichsu.com/…/18/viet-bac-lich-su-va-con-nguoi…/
[58] vì thật ra vốn gốc người Liêu nên bị
người Hán ghen ghét, Kiều Phong phải tự sát, thảm kịch gây xúc động mạnh nơi
độc giả
[59] (L’Amant The lover) Người
tình (miệt vườn Sa Đéc –Vĩnh Long gốc Chợ lớn) xuất bản năm1984 và Người tình Hoa Bắc (L’amant de la Chine du
Nord ) Marguerite viết sau khi J. J Annaud thực hiên phim The lover với Jane
March và Tony Leung
[60]
Xem Đề cương của Lê Duẩn : dẩy mạnh cách mạng công nghiệp, nông nghiệp, kỹ
thuật bla bla ...
[61] Nhiều vùng phía Nam Tàu như Quế Châu, thủ phủ xa xưa của Nùng
Trí Cao, còn đền thờ Hai Bà Trưng. Khi chúng tôi hỏi người guide gốc Thượng Hải
về sự tích Hai Bà, cô ta bảo là huyền thoại
về « hai bà phù thuỷ » ( witches)
[63] Tộc Việt gặp gỡ, hoà huyết với nền văn hoá Sa Huỳnh, nền văn
minh này với các dân tộc bản địa đến từ vùng biển đảo tuy trẻ hơn nhưng không
kém rực rỡ. Cuộc giao tiếp văn minh đồng thau và đồng sắt, văn hoá núi non đồng
bằng nông nghiệp (ăn gạo thịt) giao duyên với cuộc sống biển đảo hải hà (ăn cá tôm) là dịp may cho chúng ta non
nghìn năm trước : lột bỏ ảnh hưởng Tàu và trưởng thành biệt lập. Cũng là một
cách gặp lại giữa những hậu duệ theo cha và theo mẹ từ thời hồng hoang ?
Phải chăng một phần nhờ nguồn cội xa xôi này mà thuyền nhân Việt được bà con biển đảo Phi Luật
Tân (và Nam Dương, Mã Lai) đón tiếp cưu mang ?
[64] Thí dụ dùng tài liệu giáo khoa lịch sử do người Việt soạn thảo,
xem xét luật lệ chính trị để : lập hồ sơ kiện Trung cộng ( luật sư Tạ văn Tài
Harvard Law School ) xem 3 bài của ông ở thesaigontimes.vn. Thí dụ dự thảo kế
hoạch phòng thủ vùng biên giới với Tàu/các yếu điểm trong nước ; tấn công
(bất bạo động) /bao vây/cô lập các vùng người Tàu ( đóng góp của tân vàcựu chiến
lưọc gia quân đội, công an trong ngoài nước ) Thí dụ bảo vệ, che chở các lãnh tụ,
nhân tài và tuổi trẻ rường cột tương lai đất nước trong nước. Kêu gọi quan sát
viên /các tổ chức quốc tế đến điều tra. Vân vân và vân vân