benbinhan
jeudi 23 juillet 2020
Đi tìm Dora Maar.
Đi
tìm Dora Maar.
Thà dọn mâm cháo gà lên
bàn, rụt rè : « mời chị » nhưng đôi mắt
đen đuôi dài lá rau răm dường như lại nói khác « Đi
chỗ khác chơi ! Tui biết chị đến đây làm gì !». Tôi
thất vọng, buồn bã. Mission này quả thật impossible. Như
linh tính đã cho biết.
Nhưng tháng trước, khi tôi
gọi điện ngập ngừng tỏ ý không muốn làm sứ giả,
Lư năn nỉ suốt mấy ngày liền : « Chị giúp
em, một lần này thôi. Còn ai khác có thể giúp được em
? Chắc chắn Thà sẽ hiểu chị …Em đau khổ và
hoang mang quá sức…vân vân…và vân vân…».
Cái linh
tính vừa ngóc đầu lên bị lời đường mật áo não kia
đè dẹp lép. Đáng đời.
Ai phóng lao mà bây giờ
tôi phải theo lao !
Tôi
loay hoay suy nghĩ, muốn bắt đầu bằng lời dịu dàng với
Thà nhưng khi cắn miếng thịt gà dai như vỏ bánh xe vận
tải, tôi đâm ra bực bội. Giận Lư. Giờ này chắc nó
đang ngồi khề khà rượu nho nhâm nhi gà xé phay trộn rau
răm nhưng lại luôn miệng chê thịt bỡ, dù là thứ gà
gốc fermier Pháp được chủ trại cam đoan đã cho sống
một đời 69 ngày đi rong, ăn toàn ngũ cốc thứ thiệt.
Và
tôi là thủ phạm giết con gà trống già gốc Việt, vì
mấy kì hè trước về, tôi còn thấy nó vác chiếc mồng
rách thơ thẩn đi kiếm ăn quanh sân. Nên
tôi đành cấn cơn bực qua Thà :
- Sao bày đặt nấu nướng làm chi cho mất thì giờ ? Chị đã nói...
- Ô, mấy thuở chị mới về !
- Sao bày đặt nấu nướng làm chi cho mất thì giờ ? Chị đã nói...
- Ô, mấy thuở chị mới về !
Ngồi
đối diện với tôi, Thiết cũng ăn cầm chừng. Mặt rạng
rỡ, hạnh phúc. Nhân lúc Thà quay lưng, tôi gắp cái đùi
gà đưa xuống gầm bàn. Con Luốt mừng rỡ chồm dậy
ngoạm lấy và dong thẳng ra ngoài, ngoắc lia ngoắc lịa
chiếc đuôi xơ xác trơ da, le hoe mấy sợi lông vàng. Chúc
mi may mắn, con chó già ốm o. Lúc nãy, Thà nhất định
chia cho Thiết và tôi đôi bánh chiếc xe chưa bao giờ thay
vỏ ruột của con gà đã lên chức ông cố này.
Thiết
nhìn tôi cười cười, hấp háy hai con mắt đen dưới đôi
chân mày chữ nhất, như hai vết cọ Tàu cỡ bự - thứ cọ vẽ lá
sen :
- Ông
nội thôi !
- Ông
cố !
Cơn
giận trong tôi tan biến. Thiết chớp mắt cười xin lỗi.
Cái cười kềm chế của những người răng khểnh. Không
phải chỉ con gái răng khểnh cười mới có duyên. Ba mươi
năm qua, Thiết vẫn như xưa.
Thiết
gật gù, và đôi mắt bỗng buồn hiu hắt. Anh đứng dậy
hỏi nhỏ :
- Bao
giờ em đi ? Tối ngủ lại không ?
Và
hạ thấp giọng hơn nữa :
-
Anh chờ em chỗ cũ...
Anh
giơ chiếc đùi gà lên dứ dứ. Nói bằng mắt « nhớ
nghe !».
Thà
đưa tôi li nước vàng sẫm :
- Chị
uống đỡ nước trà. Dừa nạo em bẻ bán hết hồi tuần
rồi. Còn được mấy cây mía, tụi nhỏ đang róc vỏ.
Ngọt lắm, lát nữa chị ăn thử. Có cây ổi ...
- Chị
không ăn gì nữa đâu Thà.
Thà
quay sang Thiết nói, giọng xuội lơ :
- Anh
ngồi chơi, về chi sớm vậy ?
Thiết
lắc đầu, đi ra cửa.
Thà đành ngồi yên trên
bộ ván. Những ngón tay đan xoắn vặn vẹo nhưng hai chân
Thà thong thả đong đưa. Đôi gót chân tròn khoẻ, nứt nẻ
chằng chịt đường đất bùn. Thà mặc một bộ đồ bộ
lụa có lẽ xưa kia màu mỡ gà, in hoa hồng đỏ, những
đoá hoa hồng giờ đây đã mờ nhạt, cành lá xanh cũng
chỉ còn lại những đường gân nâu mơ hồ. Bộ quần áo
như một hồn ma cũ vàng vọt, cố ôm trọn thân Thà. Một
tấm thân đầy đặn, rắn chắc, tươi vui. Con nhỏ càng
ngày càng đẹp. Tôi nhìn không chán đồi ngực vun, cái
eo nhỏ xíu, vùng lưng dài với đường lõm cong mềm mở
lên vòng mông tròn cao. Mắt tôi bị lôi kéo đăm đăm lén
lút về ống chân thon bất tận, đôi bàn chân ngón nhỏ
đều đặn xinh xắn đang reo hát. Thấp thoáng bộ đùi
thon lẳn, dài ơi là dài. Đường biên lai quần đã mất,
đám chỉ sổ hàng ngang dọc phất phơ theo nhịp đong đưa,
Thà như đang hát thầm. Có lẽ hát theo các băng nhạc
trong bộ máy ka ra ôkê tôi nhìn thấy nằm chễm chệ phiá
trái bàn thờ. Như ba bức hình Lư đã cho tôi xem dạo nọ.
Khi Thà biên thư, gửi hình báo cáo việc làm đám giỗ
cho cha mẹ chồng. Một bàn tiệc mâm dĩa ê hề những chả
giò, gỏi ghém, cà ri gà với cua rang muối, cơm bún, bánh
mì, vân..vân...; bàn thờ khói nhang nghi ngút, mâm quả
cam quýt, táo…tràn trề. Và bức hình thứ ba : bàn
ăn đã dọn đi thay vào là « sàn nhẩy », ba bốn
ông già đang ôm nhau « nhảy đầm » : những
chú, cậu, bác của Lư, mặt mày bóng nhẫy, hả hê, vui
vẻ có ông nụ cười không còn răng. Trong góc, một bà
đang cầm mi crô, ngoẻo đầu làm duyên, miệng há hốc.
Chắc chắn cả đám đang cà rà à ơi theo dĩa kara ô kê,
điệu « anh là lính đa tình » hay « chiều
nay một chăm phần chăm em ơi ! ». Tuyệt nhiên
không thấy Thà.
Điện
thư Lư đánh về nhà sau đó : Em
làm giỗ quải đơn sơ thôi, để dành tiền nuôi con. Hồi
còn sống ông bà già anh ăn chay trường. Và chỉ biết
nghe cải lương.
« Phắt »
hồi âm nhỏ nhẹ : Mâm
đồ mặn cho mấy chú bác dùng. Trên bàn thờ toàn thức
chay. Cậu Sáu với chú Tư có ca vọng cổ cho ba má nghe
« xuân này con không về ».
Mấy
thuở mà mấy chú « khiêu vũ », cho dzui thôi.
Nhưng
những báo cáo (mật ?) khác đến từ bà con hàng xóm
nghe đâu còn nhiều chi tiết hơn những tấm ảnh. Nhiều
sự
thật
hơn chăng ? Gián điệp tài tử cũng như nhà nghề,
phất phới như lá mùa thu, ào ào quanh năm đi đi về về
nước Việt và thế giới, một ít hoạt động như các
NGO hoàn toàn vô vụ lợi, một số hành hương, một số
hoặc để khoe khoang, hoặc trả nợ quỷ thần, hoặc giải
trừ tật bệnh, ám ảnh.
Tôi
rụt rè hỏi thăm, Lư lắc đầu yếu xìu, thở ra điệp
khúc quen thuộc « thiệt hết biết ». Như tán
thán từ chấm câu hay lời thú nhận bất lực ?
Thiếu
dữ kiện để rút kết luận, tôi cũng đành« hết
biết » !
Thượng,
chị cả Lư, lồng lộn :
- Li dị quách cho xong !
- Li dị quách cho xong !
Rồi
chị phất cờ qua Internet. Thế là những cậu, dì, chú
bác khắp nơi xúm lại, kẻ đổ dầu, người tạt nước,
kẻ dạy, người khuyên, kẻ làm mai mối, người chỉ vẻ
thủ tục li dị và cưới xin cho Lư. Dường như chỉ mình
tôi nhớ ra rằng bốn năm năm về trước, một người
trong đám đó đã giới thiệu Thà cho Lư. Đa số hành
động như những người đã hết biết yêu từ đời nào.
Lư hoang mang, lo sợ (vì còn yêu, yêu nhiều nữa là
khác...) nhưng thuộc nhóm « thiểu số ». Còn
tôi, vì có bà con xa với Thà, thêm vào những chuyến giao
dịch buôn bán hàng năm đều đặn, nên bị giao thêm sứ
mạng đem « tối hậu thư » về cho Thà.
Đưa
gói tiền cho Thà, tôi nói như hẹn lần lựa với chính
mình :
- Bên ấy gửi cho em. Khi bà con về hết, chỉ còn em với chị. Mình sẽ nói chuyện riêng.
- Bên ấy gửi cho em. Khi bà con về hết, chỉ còn em với chị. Mình sẽ nói chuyện riêng.
Thà
dạ nhỏ, giọng ngoan ngoãn, dịu dàng khiến tôi hơi mất
bình tĩnh.
*
Tôi
không nhớ mình đã nói gì, vì tôi nói quá nhanh và muốn
quên ngay những điều đã nói. Đại khái hình như tôi
khuyên Thà hãy nghĩ đến Lư ; bỏ qua phần kể khổ
cho Lư- dự định nhằm kêu gọi lòng thương hại của
Thà-, nào Lư muốn làm thêm cho dư dả tiền bạc, mua nhà
cửa rộng rãi, rồi mới rước mẹ con Thà qua Mĩ, nào
một mình Lư thân ròm đèo hai ba jobs, lãnh làm ca đêm ca
xúp bất kể sức khoẻ thời giờ vân vân và vân vân,
tôi nhảy thẳng qua phần hăm doạ. Thà ngồi khóc mùi
mẫn, trước sau không một tiếng kêu oan khiến tôi hoang
mang cùng cực. Đã hết thế kỉ hai mươi mà tôi còn đóng
vai một bà cô, bà phán lạc hậu, nặng nhẹ mắng (vốn)
nhiếc một cô Loan, cô Mai sinh bất phùng thời.
Thà
co chân, kéo ống quần đầy bóng ma hoa hồng và xương lá
lên lau mắt, hỉ mũi. Chiếc mũi nhỏ nhắn đỏ hoe, hai
mắt đen to long lanh não nùng, đôi gò má Thà tròn trơn,
trắng hồng như những trái mận vườn xưa. Con nhỏ thảm
sầu mà đẹp như Sylvana Mangano thời « Gạo đắng ».
Lư ơi, em chết là phải.
Nhớ
chứ, tôi nhớ lời chị Thượng căn dặn :
-
Em cho nó biết : liệu hồn ! Nếu tai tiếng còn
bay tới chị lần nữa, liệu sửa soạn dẫn con đi
ăn mày. Thằng Lư sẽ kiếm vợ khác làm ăn. Thời này
thiếu chi con gái, và con gái đẹp nữa kià.
Làm
sao tôi có thể nói như vậy khi không có nỗi đau hờn
của người trong cuộc. Mới quanh co nhẹ nhàng, nước mắt
đã dâng tràn thế kia.
Lư
ơi là Lư, em hại em mà liên lụỵ cả chị. Ai xúi biểu
mà em cư xử như xì thẩu Singapour, Đài Loan hay Đại Hàn
? Buộc lòng rầy rà em như thế tuy chị biết rằng em
không là một lão thương gia giàu có, thì hầu thiếp
hương xa cũng như hầu bao phong bì, chỉ là những thức
dọn đường cho hành trình toàn cầu hoá của lão, và
điều quan trọng là em chỉ yêu mỗi mình Thà.
Thà
vẫn khóc, lặng lẽ. Đứa con trai bụ bẫm ba bốn tuổi,
trông giống Lư lắm, đứng ôm chân mẹ và nhìn tôi bằng
đôi mắt hạt nhãn như mẹ, nhưng ánh mắt lung linh lửa
ngọn. Bỗng không đâu tôi mua oán chuốc thù !
Tôi
bỡ ngỡ lục vấn mình liên miên cả buổi chiều, nhưng
ngay sau đó tôi lắc đầu, khoát tay bằng lòng. Nhẹ nhõm
vì sứ mạng hoàn tất nhanh chóng ; thì ra không đến
nỗi vô phương cách như đã tưởng. Xuống lưng cọp gọn
hơ. Rồi lại tự hỏi : mình yếu đuối, hèn nhát ?
mình bất bình, tội nghiệp Lư ? hay coi vậy mà cũng biết
đạo đức giả như ai ?. Thôi đi, chắc tại trời
nắng nóng và con gà bị hi sinh oan uổng. Coi như vậy cho
xong.
Tôi
băng qua vườn. Những chiếc lá mía nhám cứa vào da, reo
hò tố cáo. Vườn xưa vắng bàn tay của hai ông nội
ngoại, bây giờ như một khu rừng hoang. Cỏ voi, cỏ Mỹ,
dây ô rô, cây dại cây leo níu chân, kéo cẳng. Kệ, mặc
kệ. Một năm mới có một lần. Chết xuống âm phủ biết
gặp lại được hay không. Chẳng lông ngỗng ghi dấu,
thiếu những viên sỏi dẫn đường, tôi sẽ bị người
khổng lồ ăn thịt. Tôi sẽ thành ngọc trai màu hồng khi
được rửa bằng nước…sông xưa. Nỗi sợ cũ bây giờ
trở thành chút bồi hồi pha lẫn liều mạng đầy kích
thích. Năm nay đã khá hơn năm trước nhiều, và ăn đứt
năm trước nữa. Cứ tiếp tục như thế đi, sẽ có ngày
toại nguyện. Ý nguyện nào và từ bao giờ ? Đâu là dấu
tích ?
*
Dấu
tích cũ duy nhất còn lại. Là gạch nối mỗi năm. Là sợi
tơ mềm treo chuông ngàn cân. Là Thiết đang ngồi tỉa
từng hạt bông dừa ném xuống rạch. Tôi tưởng tượng
anh ra Petit Poucet. Những viên sỏi trắng mất hút trong
lòng nước đục phù sa. Không có đường về cho những
đứa trẻ cãi lời mẹ cha. Thiết nhẹ nhàng lắc đầu
khi nghe tôi nói ý nghĩ mình :
- Những đứa nhỏ mồ côi rồi, em !
- Những đứa nhỏ mồ côi rồi, em !
Cánh
tay anh đã dám đỡ lưng tôi và ngưng đọng lại ở đó.
Anh muốn nói gì. Những ngón tay anh nóng, khô. Anh đăm đăm
nhìn tôi. Mỗi lần đều như lần thứ nhất. Đã ba mươi
năm, đã bốn mươi năm, đã trăm năm... đã ngàn lần
quen thuộc...
Lần
thứ nhất ấy, một trăm năm về trước, anh dẫn tôi qua
con rạch sâu thăm thẳm, đưa tới nhà nôi anh. Sang bờ
rồi tôi xô, tôi phủi tay anh, tôi thè lưỡi, méo miệng,
lé mắt chọc giận anh. Anh nhìn tôi, ngạc nhiên ngập đầy
đôi mắt đen.
Không
tức ư, tôi, dân Sài Gòn, sáu, bảy tuổi, mặc áo đầm
trắng điểm hoa hồng, mặt tái xanh cơn sợ khi nhìn thấy
con sông rộng nước đầy vun mấp mé bờ đất lở, tôi
run rẩy lê giày xăng đan, nhích từng bước sắt trên
cọng nam châm lỏng lẻo gọi là cầu khỉ, một tay nắm
chặt thành cầu gồ ghề, và xấu hổ chưa, tay kia bám
cứng tay anh mười tuổi. Nửa giờ đồng hồ để qua cây
cầu tre bốn mét ! Xệ quá !
Rồi
mỗi mùa hè qua, con rạch nhỏ dần đến sắp cạn, cầu
thấp xuống và ngắn dần lại, bờ bùn thoai thoải đầy
lỗ hang còng và cá thòi lòi. Đôi lúc tôi mặc áo dài tơ
vẽ hoa, quần lụa trắng, tóc thả ngang lưng, đôi lúc
diện áo thun hở cổ, hở tay, mini jupe, tóc ngắn hai ngọn
nhọn ngoéo hai bên má à
la Sylvie Vartan,
một tay xách giày, một tay cầm khi mận, khi xoài, khi ổi,
chạy bay qua cầu. Bấy giờ thì chạy bay qua cầu. Như con
gái nhà quê. Hơn con gái nhà quê áo bà ba quần lãnh. Như
con gái thành thị. An đứt con gái thành thị. Vì chẳng
đứa nào biết lé mắt. Đứa biết qua cầu lại không
biết mặc đồ đầm. Đứa nào biết hát như Brenda Lee
I’m sorry, so sorry
thì sức mấy qua cầu khỉ mà không bám vào ai hay không
cầm tay vịn ?
Thiết chờ bên kia bờ, chớp mắt lo ngại.
Nhìn tôi như James Dean nhìn Elizabeth Taylor
trong Giants. Mà phia sau không có Rock Hudson. Và tôi nhìn lại
Thiết như...tôi. Tôi ngày xưa hay tôi bây giờ ? Không
có gương soi nên lúc nào cũng chẳng thấy mình.
Từ
lần thứ nhất lé mắt với méo miệng, qua lần thứ nhì
tôi mày
tao
với Thiết, và rồi anh
với em.
Một trăm năm như một tích tắc. Như giấc mơ. Như khoảnh
khắc chu mỏ, lé mắt. Giận đó. Rồi quên. Rồi thương...
Hồi
đó, mấy con nhỏ theo đạo « phu tử tùng tử »
nghe được tiếng mày tao chạy vô méc người lớn. Bị
rầy « sao hỗn hào vậy a con, phải kêu anh Hai, xưng
em », tôi càng ghét cay ghét đắng Thiết. Tôi đứng
xa, hướng mặt về Thiết, méo miêng, thè lưỡi và chu
mỏ nói không ra tiếng « ê, mày, ê, mày »
Thiết gãi đầu gãi tai,
cà rà quanh tôi. Rồi chạy biến đi năm mười phút. Một
lát sau, nhào tới, khoe lồng chim chìa vôi. Tôi bĩu môi,
lé mắt lần nữa. Thiết lắc lắc đầu, gãi gẵi vành
tai, lại biến đi ; rồi xà tới đưa một chùm những
cào cào, châu chấu, con đuông thắt bằng lá dừa. Ô, đẹp
quá. Tôi hỏi trống không : làm sao ? Thiết
ngoắt : đi theo anh.
Ra ngoài hàng dừa sát bờ
rạch biên giới nội ngoại, Thiết hỏi : muốn anh
leo cây nào ? Tôi chỉ cây cao nhất. Thiết vòng sợi
dây nài vào hai chân, thoăn thoắt leo lên. Thiết vặn cổ
mấy trái dừa nạo, ném xuống, tước một đám lá giắt
lưng rồi tụt xuống. Những ngón tay thon lại thoăn thoắt
đan xếp mớ lá xanh, phút chốc ra vô số những con vật
ngộ nghĩnh. Thấy mà ham, nhưng khi Thiết sung sướng hỏi :
"thấy anh giỏi không ?" Tôi lắc đầu nhìn
lên cây dừa, bĩu môi : " Y như con khỉ đột ! ".
Hai con sâu rọm trên đôi
mắt đen nhíu lại, gương mặt sáng lên nụ cười mỉm.
Ở
nhà quê hai ngày, tôi bắt đầu cà
nhựa
với ngoại :" Ngoại ơi, kêu xích lô cho con về
nhà ba má con ". Mấy bà dì trẻ nghe được, cười
rộ : " Ở đây làm gì có xích lô, muốn đi xa
phải cỡi còng nghe con, nhớ lựa thứ còng gió, chạy ba
bữa tới Sài Gòn".
Tôi
khóc thảm thiết khi Thiết dẫn tôi ra ngoài đồng, chỉ
mặt mấy con còng gió xấu xí. Thiết đưa ổi, đưa mận,
tôi phủi. Thiết chặt dừa, soi lỗ, gọt cọng sậy làm
ống hút, tôi lắc. Mấy đứa bạn quê ngẩn tò te, nhìn
nhau rồi cứ lẽo đẽo theo nhìn tôi, khiến tôi càng dấm
dẳng.
Thiết rủ :« đi coi
anh làm Tarzan ». Thiết lấy dao phay lội xuống rạch
chặt một cành dừa nước thật lớn, tướt sạch dãy lá
hai bên, giữ thân chính giữa làm sào.
- Coi nè !
Thiết
phóng gốc sào xuống rạch, tay giữ ngọn, miệng hú như
Tarzan Johnny Weissmuller uà
uá ua uá uà...uà,
vừa lấy đà đu mình, chống cả hai tay lên sào nhảy
tót từ bờ bên này qua bờ bên kia con rạch. Rồi uà
uá ua uá uà...uà...,
phóng trở qua bờ bên này, với nụ cười đầy răng
trắng, đáp người sát bên tôi. Tôi mê quá, lập tức
chùi khô mắt mũi.
Thiết
vừa nhảy trở qua lần nữa, tôi chộp lấy cây sào.
Cũng lấy đà, cũng phóng ngang, nhưng không uà
uá ua uá uà...uà,
vì lỡ đã khóc hơi nhiều, tiếng rè không thoát khỏi
cổ họng. Nhưng chân ngắn, sức yếu, tôi tòn teng giữa
con rạch. Cây sào lơ lững chỉ chực lún xuống bùn chứ
không chịu ngả ngọn qua bên kia bờ. Mấy con nhỏ nhà
quê chánh cống nhà quê ôm nhau cười ngặt nghẽo. Thiết
nhào xuống nước vừa hú vừa đẩy sào -và tôi- rạp
sang bờ bên kia. Hoa nở rộ trong tim tôi.
Mỗi
mùa hè Thiết đều có dịp cứu bồ như vậy.
Cả
đám con nít rủ nhau ra dựng chòi lá làm nhà ngoài khoảnh
đất miếng biền. Tức là chỗ đất có mương tôm của
ngoại, cắt ngang con rạch. Bên kia rạch, qua cầu và hai
bờ mương với khoảng vườn rộng, là nhà nội Thiết.
Thiết
dẫn tôi đi câu, bẫy bắt cá thòi lòi, cá lòng tong, cá
lìm kìm hay dế cơm, dế nhũi, cào cào, châu chấu, đi bắn
chim, đi lượm dừa, đi bẻ trái này, hái trái nọ. Đi
xem nội uốn kiểng, tháp cây ăn trái, xem ngoại chiết
cành, lựa hột cây ươm ...
Dần
dà, tôi không nghe mình đòi ngoại gọi xích lô về Sài
Gòn nữa. Đêm nhà quê không còn quá dài, những con ma
chẳng còn dữ dằn, đáng sợ.
Mấy
chục năm sau, năm kia, tôi hỏi anh nhớ gì về ngày xưa
ấy.
Thiết
nói :
- Nhớ lần đầu tiên em về quê. Anh thấy em ở nhà ông Năm.
- Em mới có hai tuổi. Anh bốn tuổi. Thành đồng hoá thần đồng khi nào ? Xạo !
- Không, lần nghỉ hè đầu tiên.
- Em sáu tuổi ! Nhưng sáu tuổi em đã...giống con gái đâu ?
- Ừ, vậy mà thấy thương liền !
- Biết gì đâu ...làm sao...thương được...kì vậy ? Xạo !
- Nhớ lần đầu tiên em về quê. Anh thấy em ở nhà ông Năm.
- Em mới có hai tuổi. Anh bốn tuổi. Thành đồng hoá thần đồng khi nào ? Xạo !
- Không, lần nghỉ hè đầu tiên.
- Em sáu tuổi ! Nhưng sáu tuổi em đã...giống con gái đâu ?
- Ừ, vậy mà thấy thương liền !
- Biết gì đâu ...làm sao...thương được...kì vậy ? Xạo !
Thiết
mười một, mười hai tuổi mơ làm Tarzan và biết yêu.
Thiết không dám hỏi còn tôi thì sao. À, còn tôi ?
Sao tôi chỉ nhớ Thiết nghĩ ra trò chơi này, sáng chế
trò chơi nọ. Hình như tôi luôn luôn là cái bóng lặng lẽ
bám lưng anh.
Có
phải khi trong đại gia đình họ Phan xảy ra chuyện dì
Ngà với cậu Tửu, mới nẩy sinh những câu hỏi cho hai
đứa ?.
Thật
ra, trong gia đình không ai tỏ vẻ giận dữ hay rầy la đôi
kẻ tội phạm ấy.
Cậu
Tửu con ông bà Sáu, học ở Sài gòn, hè về quê chơi như
chúng tôi. Dì Ngà của tôi là cô của Thiết, và là...
con út ông bà Ba, dì học xong bậc tiểu học, về ở vườn
luôn, chờ lấy chồng.
Ông Ba với bà Sáu là em của ông ngoại tôi và ông nôi Thiết. Chỉ có vậy mà ngày ấy tôi rối mù. Thiết chậm rãi giải thích : mình có chung một ông cố. Các ông bà nội ngoại chúng tôi là anh em ruột thịt, các dì cậu là chị em cô cậu bạn dì với nhau. Mỗi lần giỗ cố ở nhà nội Thiết hay nhà ngoại tôi, hai đứa tôi vẫn phải khoanh tay chào thưa vô số dì, mợ, cô, chị. Nhiều không kể xiết. Về sau, lớn hơn, tôi mới hiểu vì sao không thấy nhiều cậu, chú nhiều bác, dượng : đa số đều đi tập kết hoặc « vô bưng », một số ít lên tỉnh làm chi mà ít khi thấy về vườn.
Ông Ba với bà Sáu là em của ông ngoại tôi và ông nôi Thiết. Chỉ có vậy mà ngày ấy tôi rối mù. Thiết chậm rãi giải thích : mình có chung một ông cố. Các ông bà nội ngoại chúng tôi là anh em ruột thịt, các dì cậu là chị em cô cậu bạn dì với nhau. Mỗi lần giỗ cố ở nhà nội Thiết hay nhà ngoại tôi, hai đứa tôi vẫn phải khoanh tay chào thưa vô số dì, mợ, cô, chị. Nhiều không kể xiết. Về sau, lớn hơn, tôi mới hiểu vì sao không thấy nhiều cậu, chú nhiều bác, dượng : đa số đều đi tập kết hoặc « vô bưng », một số ít lên tỉnh làm chi mà ít khi thấy về vườn.
Để
cho tôi khùng lên, nhà bà Hai, nhà ông Ba, ông Tư tức là
ông nội Thiết, ông Năm, tức là ông ngoại tôi, nhà bà
Sáu đều có năm sáu con, vừa trai vừa gái, mỗi người
con lại sinh đẻ ngần đó ...Đi nhà nào tôi cũng phải
khoanh tay thưa dì Hai, dì Ba, dì Út cậu Út hoặc mợ Hai,
dì Năm, mợ Sáu vân vân, con mới ở Sài Gòn về nghỉ hè.
Mỗi
lần về quê, má tôi kiên nhẫn giải thích. Bắt đầu
bằng người già nhất : bà Hai Thăng là chị cả, mẹ
dì bé Hai; tên tộc dì bé Hai này là Thuý nhưng ai cũng
kêu là hai Thí. Nhưng khi tôi quả quyết khoanh tay, chúm
môi, phát âm theo sách vở dạy « thưa dì Hai Thúy »
thì mọi người cười rộ, và tôi bị má rầy sau đó !
« Thưa dì Hai đủ rồi, con bày đặt kêu tên người
lớn, là hỗn nghe con ! ». Không ai khen con nhỏ
này nói đúng chánh tả !
Trẻ
không được gọi tên người lớn, trong khi các bà già
đều đặt tên con bé Hai với bé Ba, bé Tư ... thì (tôi)
tính sao cho ra hở trời ?. Nhiều khi, tôi nghi những
« bé » này tự họ không ai biết tên trên giấy khai sinh
của mình.
Cho
nên tôi với Thiết đặc biệt lén phá lệ phạm huý với
dì Út Ngà và cậu Năm Tửu.
Ông
bà Hai (Thăng) là ông bà ngoại con Sáng, thằng Láng (là
hai đứa bạn chuyên đi bắt dế cơm với tôi). Má của
Sáng Láng là dì Sáu -dượng Sáu đã tập kết với cậu
Ba là cha Thiết- Trong nhà ông Ba (Thưởng) tức là ông nội
Thiết, ngoài dì Hai và mợ Ba là vợ cậu Ba tức là má
Thiết, tức là dâu ông Ba, còn có dì Tư, dì Sáu và dì
Út …Ngà; ông Ba cũng là anh ông ngoại tôi, là bác Ba
của má tôi ...vân vân và vân vân. Bà Sáu là em ông...Bảy
và là em của hai ông nội ngoại của hai đứa tôi. Gia
đình ông bà Sáu Út cũng có …Dì Hai, mợ Ba, cậu Tư,
cậu Năm và cậu Năm Tửu, dì Sáu, cậu Bảy… A, cậu
Tửu...
Ay
là chưa tính mỗi ông cố, ông nội, giàu sang hay có chút
học thức đều được quyền có thêm vợ bé. Các bà bé
sinh ra dì Hai, cậu Ba, dì Tư …dì Út. Má
tôi rầy :
- Phải nói ...bên dòng thứ. Rồi ngoại lớn, ngoại nhỏ. Con sao tối dạ quá, dạy hoài vẫn không biết.
- Phải nói ...bên dòng thứ. Rồi ngoại lớn, ngoại nhỏ. Con sao tối dạ quá, dạy hoài vẫn không biết.
Tôi
cằn nhằn vì bị rối rắm hơn nữa sau khi nghe má tôi
kể : ngày xưa vì bà ngoại tôi bị bệnh khá lâu, má
tôi còn nhỏ, được mấy bà chị của ông ngoại, bà
ngoại thay phiên đem về nuôi vài bữa vài tuần gì đó
nên má tôi gọi các bà dì, bà mợ bà cô bằng má Hai, má
Tư, má Năm. Đã vậy, đôi khi bà đông con tặng bớt con
cho bà ít con. Bà có con hay bệnh gởi con cho bà đầy con
khoẻ mạnh. Mẹ ruột mẹ gan, má thiệt, má giả, con nuôi
con vú, con giả, con thật, cháu thật. Út Một, Út Hai, Út
Thôi, Út Nữa…Khi Thiết cười cười : anh cũng có
má Hai, má Ba ...thì tôi kêu stop.
Năm
nào má tôi cũng kiên nhẫn giải thích, và năm nào tôi
cũng chỉ mang máng ghi nhận vài thứ tự trên dưới ngang
dọc khi sắp sửa khăn gói về thành thị. Lần về quê
sau lại thấy mình đã quên sạch những rễ cái rễ con
gia hệ. Tối dạ ơi là tối dạ.
Đám
giỗ năm đó vui và ồn ào như mọi khi, nhất là cho bọn
con nít chúng tôi. Nhưng tôi tình cờ nghe người lớn xầm
xì với nhau chuyện dì Ngà bỏ nhà ra đi.
Mợ
Ba, má Thiết nói với má tôi :
- Ở ngoài Bắc chắc làng xã bắt gọt gáy bôi vôi, trói bè bỏ trôi sông, cho chết, hén cô Tư ?
- Chị Ba nè, đâu mà dữ vậy. Chừng nào ngoại tình kia kià và hồi thời Tự Lực văn đoàn. Bây giờ dân mình văn minh, bớt khe khắt rồi !
- Uả ? Không có hình phạt gì sao, tui tưởng…?
- Trời hành thôi, đủ rồi.
- À, phải rồi trời sẽ phạt cho làm ăn không khá. Ừ, loạn luân sẽ đẻ con đui què sứt mẻ, câm, lé, dị tật ghê gớm lắm.
- Ông bà, tổ tiên người mình vẫn biết vậy nên không cho con cháu cô cậu, bạn dì trong gia đình lấy nhau. Mình khác người Tàu chỗ đó.
- Tội nghiệp, vái trời cho tụi nó đừng có con !
- Ở ngoài Bắc chắc làng xã bắt gọt gáy bôi vôi, trói bè bỏ trôi sông, cho chết, hén cô Tư ?
- Chị Ba nè, đâu mà dữ vậy. Chừng nào ngoại tình kia kià và hồi thời Tự Lực văn đoàn. Bây giờ dân mình văn minh, bớt khe khắt rồi !
- Uả ? Không có hình phạt gì sao, tui tưởng…?
- Trời hành thôi, đủ rồi.
- À, phải rồi trời sẽ phạt cho làm ăn không khá. Ừ, loạn luân sẽ đẻ con đui què sứt mẻ, câm, lé, dị tật ghê gớm lắm.
- Ông bà, tổ tiên người mình vẫn biết vậy nên không cho con cháu cô cậu, bạn dì trong gia đình lấy nhau. Mình khác người Tàu chỗ đó.
- Tội nghiệp, vái trời cho tụi nó đừng có con !
Nỗi
lo sợ trong tôi chỉ lớn dần vài năm sau, khi dì Ngà đưa
con về thăm gia đình. Đứa con gái của dì oặt oè oặt
oẹo như không xương sống, tay chân thiếu khớp, quều
quào, lặc lè lủng lẳng quơ bắn ra tứ phiá, nếu không
được ai đỡ cổ, đầu nó cứ gục xuống ngực, ngửa sau lưng, hoặc ngoẻo
sang bên vai này rồi bên vai kia, hai mắt to trợn trừng, miệng
lúc nào cũng nhe như cười, nụ cười ngu ngơ, méo mó,
nhiểu nhảo nước bọt, hàm hô chìa ra hai chiếc răng cửa
to bản dài như răng thỏ, những răng khác lại nhỏ xíu
như răng chuột. Như tôi thấy nó về sau này trong đám
trẻ con vùng Minamata.
Hình
phạt quá nặng. Mà Dì Ngà trắng như ngà, lành như bột.
Mỗi lần tôi lấy ngón tay trỏ quẹt lọ nghẹ dạy mấy đứa bạn làm mắt lé :" Để ngón tay nơi đầu mũi. Xong chưa ? Nhìn chấm đen, nè nhìn hoài chấm lọ, đẩy ngón tay lên từ từ, rồi nhìn theo ngón tay...". Dì Ngà nhăn mũi, nhắm nghiền đôi mắt đen, nhíu đôi mày cong, quay mặt chỗ khác, kêu trời kêu đất bảo tôi ngừng. Dì sợ « dây gân nó tuột là con sẽ bị lé luôn đó ». Khi giọng dì nghẹn ngào sắp có nước mắt, tôi mới ngừng. Trừ Thiết ra, đứa nào cũng sợ gân mắt « trật vuột thiệt» nên mãi về sau vẫn chưa biết lé mắt như tôi.
Mỗi lần tôi lấy ngón tay trỏ quẹt lọ nghẹ dạy mấy đứa bạn làm mắt lé :" Để ngón tay nơi đầu mũi. Xong chưa ? Nhìn chấm đen, nè nhìn hoài chấm lọ, đẩy ngón tay lên từ từ, rồi nhìn theo ngón tay...". Dì Ngà nhăn mũi, nhắm nghiền đôi mắt đen, nhíu đôi mày cong, quay mặt chỗ khác, kêu trời kêu đất bảo tôi ngừng. Dì sợ « dây gân nó tuột là con sẽ bị lé luôn đó ». Khi giọng dì nghẹn ngào sắp có nước mắt, tôi mới ngừng. Trừ Thiết ra, đứa nào cũng sợ gân mắt « trật vuột thiệt» nên mãi về sau vẫn chưa biết lé mắt như tôi.
Dì
Ngà qua nhà bà ngoại tôi mỗi tháng đôi ba lần cùng bà
ăn chay. Khổ cho dì là trong một dịp cậu Tửu cũng nghỉ
hè về quê, cậu âm mưu với tôi, lén bỏ vào mỗi chén
một khứa cá kho trước khi Thiết xới cơm cho bà ngoại
với dì. Rồi cậu nói huyên thuyên, đánh lạc hướng.
Khi cả hai ăn chạm phần cá, bà ngoại tôi la làng chói
lói, dì Ngà phụng phịu, nước mắt vòng quanh, chạy ra
lu nước mưa súc miệng phun phèo phèo. Tôi biết dì thương
cậu từ buổi đó. Tôi hỏi Thiết. Cứ thương nhau thôi
đủ rồi, sao bày đặt rủ nhau đi trốn chi vậy kia ?
Đã bảo tôi thuở đó tối dạ vô cùng !
Nhưng
sau đó hầu như Tết, giỗ nào dì cũng một mình ẵm con
về thăm các ông bà. Chưa lần nào tôi thấy ai nặng nhẹ
với dì. Và ai cũng thương con bé Bún, ưa nựng nịu hay
lau miệng mũi nó.
Tôi
không nhớ tôi...bắt đầu lo vào mùa hè nào. Tại sao lại
lo ? Thiệt không ? Hồi nào ?
Thiết
cười cười :
-
Hết hè mà nhớ hoài hai con mắt lé !
Tôi hỏi sang chuyện khác :
- Dì trốn ở Sài Gòn hả anh ?. Sao không thấy hai người tới nhà em ?.
- Dì trốn ở Sài Gòn hả anh ?. Sao không thấy hai người tới nhà em ?.
Những
thắc mắc bên lề lúc đầu. Về sau thì vô đề trực
khởi.
-
Có gì thì ...không nên « ngủ chung », phải
không, để khỏi có con như dì Ngà, cậu Tửu. Phải
không anh ?
Hai
đứa ngoéo tay liền tức khắc. Dễ ợt. Dễ như ăn xoài
non, khế tàu, chùm ruột chấm muối ớt. Dễ ợt được
bao lâu ?
Những
cái ngoéo tay thuở nhỏ. Còn hơn đinh đóng cột. Sau này
thành cọc gỗ đóng thẳng vào tim. Như Dracula, khỏi cần
chờ thấy mặt trời, hoá bụi là cái chắc !
Những
ngày hè càng về sau càng ít vui, không phải chỉ vì
chuyện thi trung học bị bãi bỏ. Tại tôi sợ thi mà ham
đậu. Ngược đời chưa ? Hay vì chuyện con Đốm của
ngoại tôi đã bị người ta xin làm thịt vì « tối nó
sủa quá » ?. Có phải tại tôi nhìn quá gần con
bé Bún ? Hay vì vào năm đó, một bữa ông Ba nhậu rượu
ở nhà người quen, buổi chiều hát nghêu ngao mò mẫm về
nhà, chân nam chân chiêu ra sao lại té lọt hầm chông ngoài
đường cái ? Dì Ngà khóc ơi là khóc. Con Bún quơ tay quơ
chân cười ngu ngơ, vừa ho, sặc vì nước miếng chảy
ngược cả vào tai, vào mũi. Cả nhà xúm xít quanh ông Ba
nằm trên bộ ván ngoài, bỏ nó một mình trong buồng. Mợ
Ba, má Thiết dặn tôi « con vô ngồi chơi canh chừng
em, sợ nó trườn ra ngoài, té ». Dường như bà cố
ý bắt tôi ngồi bên con bé ấy suốt tối đó và cả
ngày hôm sau nữa, cho đến khi mọi người đưa ông Ba
xuống ghe chèo ra bệnh viện thị xã. Chứ Bún nhích được
tới đâu mà té ?
Té
xuống sông, té từ trên ván xuống đất, té từ trên cây
dừa, cây xoài, v..v.., tóm lại, tất cả những thứ
« té » thiên nhiên này đều không là gì cả bên
cạnh « té hầm chông ». Nhất là khi những thân
tre chuốc nhọn trong đêm lửa dừa thơm ngát+ lửa hận
ngùn ngụt, lại xuyên qua bụng, qua chân người thân. Dĩ
nhiên, khi chúng xuyên qua thân Mĩ, Ngụy thì không ai thèm
tội nghiệp. Ít ra là ngoài mặt. Nhưng tôi chưa lần nào
thấy được tận mắt bọn Mĩ Ngụy lọt hầm chông. Cũng
may, ông Ba say mèm nên ít đau hơn người trong nhà. Bàn
chông tre nhọn hoắt chỉ cắm xuyên suốt bàn chân và bắp
chân trái cùng một bên thịt mông ông chứ không đâm
trúng chỗ nhược.
Thiết
chạy ra chạy vào, nói nựng, chùi mặt mũi bé Bún, đem
cho tôi món này, món nọ. Tôi đọc truyện Ngọn cỏ gió
đùa, nhưng những hàng chữ nhảy lung tung, tôi cắn vào
những trái cây non nhưng chỉ thấy cái cười ngu ngơ nhớt
dãi lòng thòng và đôi mắt trợn trừng.
Tôi
thương dì Ngà lắm, vừa bất bình vừa e dè những « quả
báo ». Dì có tội nên ông Ba phải lãnh quả báo !
Càng
suy diễn, tôi càng sợ mợ Ba sẽ …té hầm chông hay sẽ
bị bất cứ hình phạt nào khác. Lỡ ra, ai lo nấu cơm
cho Thiết ăn ?
Sau
này tôi đổ thừa «Tại anh ngu». Thiết gật gù nhận
tội nên tôi lật đật sám hối :« Không, hồi
đó, hai đứa mình đều ngu quá trời ».
Lần
găp cuối trước khi xa nhau đằng đẵng mười lăm năm,
hai đứa còn ngu không ?
Lần
đó, Tết cuối cùng gặp nhau, Tết Mậu Thân. Tôi về
quê, từ trước ngày cúng giao thừa. Về bằng xe gắn máy
honda. Tết ngưng chiến mà. Hơn nữa, ngoại nhắn « mấy
ảnh nói ngưng bắn thiệt ». Ba má tôi đành phải xiêu
lòng, căn dặn « sáng mùng một , con phải xin ngoại
cho con về trở lại Sài Gòn». Tôi dạ, nhưng trong bụng
quyết định chỉ về một ngày trước khi tựu trường.
Thiết đã nói « Tú tài một dễ ợt, đừng lo »
Tối
ba mươi, hai ông nội ngoại ngồi đếm tàn quân nơi lò
đường. Năm nay, chỉ có Thiết và tôi về quê ăn Tết.
Kể từ Tết năm Tị, năm Ngọ rồi năm Mùi, đám con cháu
tản mát khắp nơi không còn về đông đủ. Vì những bàn
thờ, lư hương quá sơ sài, tạm bợ ? Vì nơi lò
đường cũ này, không phải quê thiệt và quá nhiều cư
dân xa lạ, tuy tất cả đều đến từ những khu vườn
tan nát ?
Từ Cần Thơ về đây
trước tôi hai hôm, nhưng Thiết không chịu theo mợ Ba về
tận trong vùng quê thứ thiệt. Anh cầm nắm giẽ, ngồi
chùi miết chiếc honda. Thỉnh thoảng vươn cổ nhìn tôi,
hai mắt long lanh. Mợ Ba ngày mai mới chèo xuồng ra đây.
Thiết nói mợ Ba ở nán canh mấy nồi bánh tét, bánh ít
nhưn dừa, nhưn đậu. Quà Tết cho ba má tôi và « bà
con ở chợ », những người thiếu thì giờ, thiếu
lá chuối, thiếu dừa, thiếu nếp, thiếu nơi chốn thiếu
không khí, nên không thể gói bánh nấu cúng ông bà.
Hai
đứa muốn lắm nhưng không được phép vào tận làng quê
khi không có người lớn dẫn lối. Mìn bẫy phá đường,
bom đốt vườn cắt sông, lấp rạch. Trong năm, ngày
thường không bên nào ngưng bỏ bom hay bắn đại bác, bắn
pháo với mọt chê.
Hai
ông già nói rồi, đố ai dám cãi, kể cả hai đứa cháu
lì nhất. Chiếc honda càng lúc càng sáng choang và Thiết
cứ nhìn tôi đánh morse. Đánh hoài ba chữ S.O.S.
Không
được về vườn, ở đây làm gì hở trời ? Hai ông
già đi ra đi vào, lóng ngóng chẳng có việc gì để bận
bịu, thấy tội nghiệp. Tôi nói với Thiết : Không
vô vườn được, chiều mai em về Sài Gòn. Đi với em
không ? Thiết lắc đầu. Hai đứa ngồi ăn mứt gừng,
mứt dừa nghe hai ông già nói chuyện nắng mưa và chuyện
thời đánh Tây.
Gần
sáng, sáng tinh mơ, năm mới tinh mơ, vì mới một giờ
rưỡi sáng, đạn, pháo từ đâu đổ vào thành phố Bến
Tre. Về sau, tôi mới biết, từ sáng đó hay từ đêm giao
thừa, cả « nước» Sài Gòn bị đánh thức bằng
tiếng súng.
Các
gia đình hàng xóm, hai ông già tom góp của cải, tiền
bạc, lùa con cháu bỏ nhà chạy ra ngoài lò đường. Những
cỗ máy nấu mía làm đường ngưng chạy từ hai ba năm
nay, bắt đầu rỉ sét và có lẽ đã « bị đem bán
ve chai » nên lò đường xưa với những mặt tường
gạch cao và dày với mái ngói trở thành hầm trú ẩn
kiên cố. Những con mắt ngái ngủ ngồi sát những mé
tường, những tiếng nói thì thào. Những người đàn bà
ôm những đứa trẻ, đứa nào cũng ngoan ngoãn, không một
tiếng khóc, không một lời nói cao giọng. Mọi người
như đã quen thuộc lắm với tình trạng này. Thiết ngồi
cạnh tôi, thì thầm « ừ quen rồi, mỗi khi có bom hay
pháo kích, mọi người đều chạy ra đây ». Ánh sáng
hoả châu vàng rực thỉnh thoảng loé lên, xuyên qua những
ô cửa sổ soi lần lượt trong vài khoảnh khắc từng tấm
lưng, từng khuôn mặt. Những gương mặt lạ quen ấy đều
câm nín hoặc thì thầm nhỏ nhẹ như sợ tiếng nói mình
có thể thu hút hay làm chuyển hướng bay của mọi thứ
bom đạn đang ầm ầm nổ liên tục ngày đêm nhưng bên
ngoài bờ tường dầy. Tôi yên lòng nhìn thấy rõ những
sợi râu trắng cước của ông Ba và mái tóc quăn màu
trắng xám của ngoại.
Thiết
có mái tóc như ngoại tôi, dợn sóng. Ánh mắt và bộ tóc
Chiêm Thành, và màu da trắng sáng của mẹ. Tôi dần dần
quen với tình thế mới, ngồi bó gối ngủ thiếp.
Khi
các tiếng nổ đến quá gần. Tôi bị xốc dậy, bị lôi
chạy theo mọi người.
Chạy
vào một ngôi nhà hay trường học, công thự xưa kiên cố
gần đấy và đổi chỗ theo chiều hướng tiếng nổ,
thật ra chỉ chạy loanh quanh không xa vùng nhà cũ.
Một
ngày, hai ngày ? Một đêm, hai đêm ? Tôi không biết
vì khi thức dậy lần nữa, Thiết và ông ngoại tôi đi
đâu mất tự bao giờ. Bên ngoài những tiếng nổ vẫn
còn. Những vuông trời xanh ngoằn ngoèo đôi cột khói.
Chợ Bến Tre cháy mãi chưa xong. Nghe nói cầu Cá lóc, cầu
Cá trê gì đó đã sập. Dinh tỉnh trưởng đã cháy rụi.
Đài phát thanh không còn.
Tôi
ngồi lặng bên ông Ba, bên những người khác, trong một
ngôi nhà khác. Vẫn không ai nói với nhau lời nào. Xung
quanh, lần lượt đến rồi đi những ông bà già xa lạ.
Những người thiếu phụ bơ phờ với những đứa bé
ngoan ngoãn một cách bất bình thường. Tôi lơ đểnh nghe
radio, dường như đôi lúc là đài Mặt trận Giải phóng,
đôi lúc đài Sài gòn, vì những tin tức cũng như những
bản nhạc, bài hát khác hẳn nhau. Hai bên đang nói về
chiến thắng. Địch đang bị tiêu diệt. Ngoại với Thiết
thỉnh thoảng lẳng lặng rời chỗ trú và trở lại với
một ít bánh trái. Đêm và ngày nối tiếp, giống hệt
nhau.
Ông
Ba kiên nhẫn dạy tôi nhận mặt từng thứ tiếng nổ. Nổ
dòn cốc cốc. AK 47 đó con. Rống như vậy là súng liên
thanh trực thăng bắn xuống đó con. Từng tiếng rời là
bá đỏ, các bin, cái này là M16. Đó, đó là đại bác,
cái kia 122 li, B40. À, ình ình tức ngực như vậy là B 52.
Máy bay bắt đầu bỏ bom rồi đó. Tôi đảo mắt tìm.
Thiết và ngoại lại đã ra ngoài. Và sao lần này lâu ơi
là lâu. Ông Ba tiếp tục bài giảng.
Những
thứ tiếng nổ vẫn chồng chất, nối tiếp nhau, đêm về
rời rạc, thong thả. Nhưng không bao giờ ngừng nghỉ.
Gần
thuộc lòng tiếng chiến tranh thì tôi thấy ngoại với
Thiết về.
Thiết
giơ cao mấy đòn bánh tét : « đánh nhau giữa Tết
thì không ai bị đói ». Tôi vừa giận, vừa sợ. Hai
con mắt xin lỗi « anh về đây rồi mà » khoe
chiếc xuồng con cột dưới bến, chiếc xe honda nằm kềnh
càng giữa lòng ghe, ló gọng ló yên dưới manh chiếu
rách. « Phải có xe em mới về được Sài Gòn ».
Thì ra Thiết với ngoại quay ngược về chỗ cũ tìm thức
ăn, và nhất là « cứu » chiếc honda.
« Yên
yên rồi con », hai ông già trấn an đứa cháu nhỏ.
Đến
trưa, khi tiếng nổ bớt dồn dập, Thiết rủ tôi chạy
về nhà lấy nốt đồ đạc. Ông Ba ngần ngừ muốn đi
theo tìm mớ giấy tờ bỏ quên. Tôi vội vã : "
Anh Thiết tìm giấy cho ông và con cần tắm, thay quần áo.
". Tôi hiểu nỗi ám ảnh dày vò ông. Ngày xưa, hồi
« thời chín năm », người chủ cũ không lương
thiện của khu vườn nhỏ, đã đòi ông trả tiền lần
nữa sau khi tình cờ biết được ông Ba đánh mất văn
bản khế ước chủ quyền khu vườn lúc chạy trốn lính
Pháp ruồng bố. Khu vườn này, má tôi, các bà dì vẫn
gọi là « miếng đất mua hai lần »
Hai
ông dặn dò phải cẩn thận. Đoạn đường trở lại lò
đường độ vài ba trăm thước. Sau mấy ngày chạy loạn
chúng tôi chỉ di chuyển được ngần ấy khoảng cách.
Những tiếng nổ thỉnh thoảng rền lên xung quanh, trên
đầu, nhưng có vẻ như rất xa, ngoài tầm khu nhà nhỏ.
Đây đó vẫn có người vụt chạy ngang. Mùi khói, mùi
thuốc súng thoạt đầu nghe thơm như đêm giao thừa.
Ở
mỗi nhà, chúng tôi tom góp các thứ lại xem cái gì cần
thiết phải lấy đi. Thật ra nhà chỉ là một ngăn chòi
nhỏ, kiểu nhà dành cho người « chạy giặc »
nói như hai ông ngoại nội vẫn nói. Những ngăn chòi
giống hệt nhau, vách ván sơ sài và mái lá, dựng vội
quanh lò đường cũ, sát bờ sông lớn. Mỗi gia đình một
ngăn nhỏ, nhiều lắm độ trên dưới một chục mét
vuông. Ngoại ở với dì Hai tôi. Ông Ba ở với má Thiết.
Hai nhà sát nhau. Vách ngăn buồng ngoài với buồng trong là
mành khuôn tre lá tranh đan kết. Đồ đạc « chạy
giặc » đã dăm ba lần, chẳng còn gì. Ghế bàn xiêu
vẹo, "nhà" ngoại có thêm cái "đi quăng"
là nửa bộ ván gõ, tối ngoại ngủ trên bộ ván này.
Vài tấm ảnh ông bà cố tổ trên bàn thờ. Với một lư
đồng, nhánh mai trong chiếc độc bình đã nứt rạn.
Buồng trong, là phòng ngủ và nhà bếp kiêm phòng tắm -,
trên chiếc giường tre xộc xệch, bên bộ quần áo dì
Hai, xấp lụa màu quà Tết má tôi cho dì Hai đã phủ một
lớp bụi lá. Chắc dì Hai đành ở lại trong vườn với
má Thiết. Dưới đất, lò dầu lửa ngả nghiêng, vết
dầu đổ loang tròn một khoảng đất, dao thớt, năm ba
chiếc chén mẻ vung vãi. Còn được đôi ba lon gạo trong
cái khạp sành đã vỡ mép, và một nồi nhôm đen thui,
méo mó, một chiếc màn nhỏ và thấp ngăn bếp với
"phòng tắm", phòng tắm hay "sàn nước"
là những vuông gỗ ghép thưa lót dưới chiếc lu nhỏ
chứa nước mưa, đôi chiếc gáo, trên sào kẽm giăng ngay
trên bếp còn treo một vài chiếc quần ngắn dài, đôi áo
rách. Thiết bỏ vào bao vải những hộp mứt, hộp thịt
quân đội Mĩ, hộp trái vải và cả xà bông bột Tide.
Cũng là quà Tết tôi đã chở về hôm trước cho ngoại.
Tôi kêu lên với Thiết : sao ngoại nghèo quá hả anh.
Suốt
mấy đêm vắng ngoại, vắng Thiết, ruột gan tôi cháy đỏ
như những trái hoả châu ngoài kia. Bây giờ lo lắng tiêu
tan, mới bắt đầu biết sợ, tim tôi đập đùng đùng và
quên mất mọi dự định.
Ôi,
những mùa hè hai đứa ngoan ngoãn ra vào cạnh nhau. Tôi
biết chắc, ngay dù nếu mợ Ba không tới lui dòm chừng,
hai đứa sẽ vẫn « ngoan ». Vẫn ngoan dù hai năm
nay không thấy dì Ngà vác con Bún về quê.
Tôi
chăm chỉ học bài học về bệnh tật, vi trùng, vi khuẩn,
hay mầm bệnh di truyền. Tôi đã bắt đầu lục lọi khi
học bài, đọc báo, cố tìm hiểu về những đứa bé dị
tật. Về những cha mẹ dám « cãi lời gia đình đôi
bên ». Không tin lắm vào chuyện quả báo cho con cái
khi cha mẹ yêu nhau. Nhất là khi điên cuồng yêu nhau. Dù
có chung một ...ông cố. Yêu nhau làm sao lại là tội lỗi
chứ ? Nhưng vẫn sợ. Sợ những lời nguyền, những quả
báo ?. Sao ngu chi mà ngu lạ. Ngu thật lâu, ngu dài dài.
May
mà kịp thấy mình ngu. Bắt đầu nghi ngờ những « quả
báo » và « trừng phạt của tổ tiên ».
Càng sợ càng nhớ. Nhớ nụ cười răng khểnh. Nhớ đôi
chân mày rậm và hai con mắt sâu sâu rất Tây phương. À,
sao Thiết lúc nào cũng có vẻ buồn. Nỗi buồn Hời ư ?
Chỉ nói bậy ! Tại cái ngoéo tay ?Tôi loay hoay
tìm hiểu. Ờ, chắc tại Thiết thiếu tình cha, chắc tại
Thiết thương mẹ sớm goá phụ. Hơn nữa, khi nãy nếu
Thiết không trở lại thì còn gì mà nói khôn với dại,
phải không…Cứu
chiếc honda, để em còn về Sài Gòn
!! Và tôi cứ sợ, cứ lo. Lo bò trắng răng. Bỏ học lội
!
Bây
giờ, không ngán B 52 nữa, đại bác là cái cóc gì, tôi
cũng hết muốn về đâu nữa. Thiết hỏi khi tôi đứng
lên, vén tắm màn nhựa bước ra, vò chiếc áo dơ làm
khăn lau tóc ướt :
- Hết sợ chưa ?
- Hết sợ chưa ?
Tôi
gật đầu, kêu lên :
- Hết dơ, hết sợ nhưng em làm cạn lu nước mưa của ngoại ! Tắm gội bằng xà bông Tide ghê quá anh ơi. Còn anh, anh có sợ không ? Làm sao ra phông tên gánh nước về đền ngoại ? Phải giặt đồ nữa…Chết…
- Hết dơ, hết sợ nhưng em làm cạn lu nước mưa của ngoại ! Tắm gội bằng xà bông Tide ghê quá anh ơi. Còn anh, anh có sợ không ? Làm sao ra phông tên gánh nước về đền ngoại ? Phải giặt đồ nữa…Chết…
Trời
đất, tôi nhận ra mình lại lo chuyện không đâu. Anh mắt
Thiết kì lạ. Tôi hỏi lại :
- Anh sợ không ?
- Anh sợ không ?
Tôi
ngẫm nghĩ nếu Thiết gật đầu thì mình sẽ chẳng biết
phải làm sao vì trong tình hình thông thường mọi khi,
người « cứu bồ »không phải tôi...Bây giờ...
- Sợ em ? Sợ !
- Sợ em ? Sợ !
Hai
con mắt đen sáng rực lên, nhìn bộ áo vải đen nhăn nhầu
trên người tôi. Tôi kéo kéo đôi vạt :
- Thấy em giống gái quê chưa ?
- Giống lắm. Nên anh càng mất bình tĩnh ! Em không sợ thật à ?
- Thấy em giống gái quê chưa ?
- Giống lắm. Nên anh càng mất bình tĩnh ! Em không sợ thật à ?
Thiết
chợt nói tiếp, không đợi tôi trả lời :
- Lé mắt cho anh coi.
- Lé mắt cho anh coi.
Tôi
phì cười. Ngày xưa, mỗi lần tôi sắp...biểu diễn lé
mắt, tôi bắt Thiết chạy đi mượn dì Ngà tấm gương
soi. Nhưng dĩ nhiên, tôi chẳng bao giờ nhìn được mắt
mình dù nghiêng bên phải, né bên trái, nhìn xéo góc nhọn
hay góc tù. Bóng tôi trong gương nhoè nhoẹt thành hai. Có
khi ba bốn Dora Maar. Mắt mũi cứ ẩn hiện chồng chéo
lên nhau. Thiết cười tủm tỉm trong khi dì Ngà năn nỉ
« thôi, thôi, ngừng đi con, dì biết con giỏi rồi ! »
Thiết
đưa ngón tay trỏ nhẹ nhàng vén chòm tóc ướt trên
trán tôi : " nhà ngoại không có gương ". Ngón tay
mải miết chần chờ nơi sóng mũi tôi, chậm chạp xuống
dần xoay quanh chóp mũi. Da tôi mọc ốc. Ôi, nếu như khi
nãy Thiết không về được, ai cho tôi nghe những lời này
?
Thiết
thì thầm : « Ngoéo tay giải bỏ cái ngoéo năm năm
trước ». Tôi giơ ngón tay. Thiết nắm luôn những
ngón còn lại. Tim tôi bỗng lại dồn dập gõ trống,
nhưng cả thân người ấm áp, dễ chịu. Thiết vuốt ve
khuôn mặt tôi, kêu lên : đừng sợ. Tôi nghe hai chân
mình như muốn rụng đi. Ừ, em không sợ. Nhưng vẫn run.
Chúng ta sắp sửa làm gì đó ? Chúng ta sắp sửa hết còn
ngoan. Kề sát gương mặt thanh tú "gia" cấm, gần
đến nỗi tôi nghe cả tiếng tim hai đứa, tôi nhìn thấy
tôi trong mắt Thiết. Rạng rỡ và đẹp lắm, vì không có
vết lọ trên mũi. Vì không còn nhớ đến bất cứ điều
gì khác nữa. Thiết lùa xấp hàng màu xanh lá chuối xuống
lót đầu tôi, hôn vào cổ, vào mặt tôi, tiếng thở dồn,
đôi bàn tay nóng, những ngón khô gần gũi và mới mẻ.
Tóc Thiết thơm nồng mùi lá cây, mùi đất vườn quen
thuộc. Da thịt tôi phập phồng, mặt tôi nóng ran, tim rập
rềnh gõ trống loạn đả từ ngón chân đến ngọn tóc.
Chúng ta sắp sửa…
Như
thuở xa xưa, tôi nghe ngóng, chờ đợi ; cái cảm giác hồi
hộp kích thích vô cùng dễ chịu này đã lớn dần theo
những tháng hè, càng lớn tôi càng sợ nhưng càng ghiền
nó. Cái cảm giác lâng lâng sung sướng khi được anh đưa
cho một chùm mận chín, một trái ổi tròn xanh láng
bóng…Mỗi mùa hè, nhạt nhoà dần mận ổi, đậm đà
thêm ánh nhìn, rõ nét những ngón tay trao, những ngón tay
cơ hồ chạm nhau, nói với nhau điều gì đó, lạ lùng,
thân quen, cuốn hút. Tôi sợ cái nhìn mợ Ba nhưng tôi
khát khao thấy hoài đôi mắt Thiết. Một
lần tôi kêu :
- Thiết nhìn gì mà …ghê quá !
- Thiết nhìn gì mà …ghê quá !
Thiết
chớp mắt :
- Ghê hả ? Anh có lé đâu mà ghê ?
- Ghê hả ? Anh có lé đâu mà ghê ?
Mỗi
lần nhúng chân xuống dòng nước đục phù sa, tôi sợ
thuồng luồng cắn, ngán ma da kéo cẳng, nhưng nỗi sợ
ấy nhẹ hơn cái cảm giác lâng lâng lạ lùng khi nghe bàn
tay anh đỡ nhẹ lưng tôi. Những ngón tay nắm lấy tôi. "
phải quạt tay như thế này, phải búng chân như thế kia
". Nhớ ngón tay chứ không nhớ trăng. Có phải vì vậy
mà nghề lội học mãi chẳng nên thân ?
Ầy,
mà ngày xưa thật xưa, những lần đầu chấm lọ chóp
mũi tập làm lé, tôi vẫn chạy quanh trốn ngón tay ấy.
Thiết than " Để anh lau mũi cho, em xấu lắm, như anh
hề Sạc Lô ". Tôi chỉ dừng lại khi Thiết dọa "
Để lâu, lọ ăn vào da, cái mũi sẽ đen thui như mũi mèo
"
Lớn
dần lên tôi lại cứ muốn ngón tay Thiết vuốt hoài sóng
mũi tôi, đổ thừa vết lọ lì lợm. Chỉ với Thiết,
luôn luôn là với Thiết, một Thiết lúc nào cũng đầy
sáng tạo, nhiều phát minh, độc đáo, chở che… Những
khúc dạo thần sầu, nấu nung âm ỷ. Như những trái chín
trăng rằm mười sáu. Như trái ngọt một chục mười
lăm. Tràn khỏi bàn tay háo hức chờ đợi. Sẽ vỡ bùng
ra bây giờ. Phải bùng vỡ ra bây giờ. Nham thạch sôi sục
cháy lỏng phải vọt tràn đỉnh núi, cuồn cuộn ôm sát
vòng sườn, phập phòng trôi mềm về chân núi, trước
khi hóa đá, để đọng nỗi cuồng si thỏa mãn đỏ hóa
đen… Trời ơi, chỉ giản dị như vậy thôi…Những ngón
tay Thiết đốt cháy và cháy trên tôi. Chúng tôi vỡ bùng,
chúng tôi bỗng thông minh…Và sẽ nhớ nhau trọn đời.
Trọn đời nhớ nhau….
Những
chùm nổ chụp xuống thật gần. Đất đổ rào rào trên
nóc lá, bụi rơi đục ngầu không khí. Và những tiếng
kêu la thảm thiết lôi rời hai đứa. Thiết vực tôi dậy.
Đôi bàn tay mơn trớn, vội vàng và âu yếm vuốt đi
những bụi bậm. Tôi hốt hoảng nhưng yên tâm ngay khi
nhìn thấy Thiết cười, hàm răng trắng bóng, đôi mắt
sáng rực.
Thiết
vác bao vải trĩu nặng kéo tôi chạy ra khỏi nhà. Đất
bụi và mùi cháy khét xộc vào mũi. Tôi kêu lên trong bụng
« Thôi rồi !». Ngoéo tay cho bất cứ điều gì,
xưa nay chỉ được một lần thôi, cái chi mà ngoéo tới
ngoéo lui, hoá giải với không hoá giải ? Mi ăn
gian...
Ông
Ba nằm gục cách dãy nhà không xa. Những người đàn ông
gọi nhau lạc giọng. Tôi như mê đi, bỗng không còn nghe
bốn phiá đất trời vẫn ầm ầm rung chuyển.
Lâu
lắm về sau, tôi thấy tôi ngồi yên trong chỗ ẩn nhìn
ra, tôi thấy ông ngoại đang cầm khăn ướt lau bụi trên
mặt ông Ba. Đám người đông đầy đôi giờ trước đó
đã biến đâu mất. Bộ quần áo ông Ba hôm giao thừa màu
trắng, bây giờ vấy đất cát đen bẩn từng mảng, ông
nằm như ngủ, bộ râu cước ba chòm ẩm nước xẹp xuống
buồn bã, vuông mền xám đắp ngang bụng đến gối.
Giường táng là một mặt ván kê trên hai chiếc ghế đẩu.
Nước mắt chảy dài trên gương mặt ngoại khép kín. Tôi
không dám nhìn Thiết. Chỉ vì tôi vượt qua vùng cấm
địa. Ngày trước dì Ngà ...Bây giờ, chỉ vì Thiết đã
vượt qua vùng cấm địa. Bây giờ hai đứa...Hai đứa đã
làm gì ?
*
Chiếc
ghe nhỏ chậm rãi lướt nhẹ trên mặt nước, sát bờ,
đôi khi lườn ghe chạm vách bùn, thành vết hằn dài.
Ngoại chống sào ở mũi ghe, Thiết chèo lái. Ngồi xoay
lưng về phiá Thiết, ngay dưới chân ông Ba, tôi níu giữ
mép chiếu. Chiếc chiếu nhỏ không đắp trọn thân ông
Ba, khi tụt bên phải khi trượt bên trái, theo nhịp chèo.
Đôi lúc tôi có cảm tưởng như thấy mặt kính chiếu
hậu xe honda nằm ngang mũi ông mờ đi. Có khi về đến
nhà, ông sẽ tỉnh lại chăng ?
Đôi
lúc, ngoại ngưng chống, cắm sào giữ ghe lại, căn dặn
hai đứa, rồi lên bờ. Ông tìm nhà người quen biết xin
nghỉ qua đêm.
Về
phia chợ Bến Tre, những cột khói xám vẫn ngoằn ngoèo
trên nền trời xanh điểm mây trắng. Tiếng đại bác,
tiếng bom vẫn thình thình như vọng đến từ chỗ nào
rất xa xôi. Không quay lại nhưng tôi nghe ánh mắt Thiết
nằm trên vai, đọng trên cổ. Da thịt bỗng luân phiên
rần rật nóng đỏ, râm ran êm đềm dễ chịu, quá sức
êm ái dễ chịu.
Và
lập tức, trong đầu tôi mơ hồ mợ Ba với gương mặt
sa sầm và những lời trách cứ, mắng nhiếc, không, mợ
sẽ chỉ nhìn bằng đôi mắt Thiết, long lanh màu giận
dữ. Má tôi sẽ năn nỉ « con nhỏ tối dạ lắm, chị
đừng giận nó » ! Năn nỉ bao nhiêu lâu thì má
« cứu bồ » được hai đứa ?
Với
các tin tức thu thập không biết từ đâu, ngoại quyết
định không tiến sâu về phía vườn nữa. Máy bay sẽ
dội bom. « Mấy ảnh » đang rút khỏi thành phố
Bến Tre.
Ghe neo lại dưới bến nhà
một người bà con xa. Căn nhà nhỏ ven sông, người chồng
cụt một chân hút thuốc và nói không ngừng nghỉ, người
vợ câm nín. Căn hầm sườn gỗ đắp đất và vài bao
cát nhỏ xíu chất quanh. Mỗi lần có tiếng nổ gần,
người đàn bà với lũ con nhỏ và tôi tự động chạy
vào hầm. Những người đàn ông ở ngoài, vẫn ngồi yên
trò chuyện. Tôi bó gối trong hầm hay trên bộ ván tre,
nghe cơ thể bâng khuâng một nỗi lưu luyến lạ lùng và
đầu óc tê liệt, mụ mị. Những đứa trẻ không hề
khóc nên tôi không khóc. Người đàn bà không hở miệng
nên tôi cũng không biết nói chi. Chị cùng họ bên phía
bà ngoại tôi, xa không biết đến đâu nhưng tôi thấy
chị cũng đẹp như các bà dì trẻ rất gần của tôi,
như dì Ngà, da trắng hồng, mượt tóc, bới thành búi dày
to sau gáy, đôi mắt đen câm nín, buồn bã một cách lạ
lùng. Chị lặng lẽ từ bếp ra nhà trước, từ nhà trước
ra sân sau, âm thầm nhẹ nhàng như một bóng ma, mớm cơm
cho đứa con nhỏ, với tay đưa võng cho đứa kế. Người
chồng đen đúa, mũi to, trán thấp, răng đen vì nhựa
thuốc lá. Sáng nay, như mọi khi, anh bất chấp tiếng nổ,
cùng thằng con lớn độ chín, mười tuổi chèo ghe ra giữa
sông quăng lưới, cắm câu. Văng vẳng tiếng anh ta chỉ
dạy thằng con. Tôi ngồi trong nhà, xung quanh đơn sơ trống
trải, không một quyển sách hay tờ báo, tôi nằm trong
hầm, hầm sáng lờ mờ, vách đất lạnh lưng ; tôi thơ
thẩn trước sân, sân rung nắng dữ dằn tiếng nổ, ngoại
và Thiết lại mất tăm, tôi lóng ngóng ngoài vườn, theo
dõi bóng lá. Tôi bồn chồn, lo lắng theo dõi cơn đau bụng
lâm râm, tưởng tượng và cố quên ngay một tội lỗi có
thể đang thành hình. Tôi nhìn ra sông, người đàn ông
gác chiếc đùi cụt lên mạn ghe, ngửa mặt lên trời,
nhả khói phì phà, thằng bé con quay đầu về phía những
cuộn khói ngoằn ngoèo trên đầu thị xã, tôi nhìn người
vợ ôm con nhỏ ngồi nơi mép ván bên kia, chị day lưng
ngó ra lộ. Lộ đá nhỏ vắng lặng. Hai đứa bé rách
rưới khác thơ thẩn ra vào, thỉnh thoảng nhìn tôi, nhìn
chiếc honda dựng bên ngoài vách nhà.
Hôm
sau, mọi lo lắng tiêu tan khi tôi nghe những giọt máu kinh
nguyệt ngày đầu tiên thấm ướt đáy quần lót. Thế là
xong. Một thứ ao ước mang nặng bồn chồn, thách thức
hôm trước nhường chỗ cho một thứ tuyệt vọng mênh
mông và nhẹ tênh. Thế là hết.
Nhưng
trời đất, biết làm sao đây. Tôi nhớ rõ, ở Sài Gòn,
ở nhà tôi, những quần áo lót, gói băng vệ sinh nằm
chỗ nào trong tủ quần áo... Ở đây, tất cả đã bị
vất bỏ, bị rơi mất tự bao giờ. Ngoại không có một
tấm áo sạch thay cho ông Ba. Từ hai ngày nay, ngoại đã
cho, đã trao đổi hoặc bán hầu hết các món quà Tết.
Nhưng tôi nhớ rõ mình không hề đói hay khát, hoặc muốn
ăn uống.
Vậy
mà ngay sau đó, cơn đau bụng chợt ngưng bất ngờ, cơ
thể tôi ngoan ngoãn nghe lời cầu cứu. Không có ngày kinh
thứ hai.
Giữa
ngọ, người đàn ông đem ghe về bến, nhảy cò cò lên
bờ, miệng phì phèo thuốc lá. Thằng bé xách chai đi mua
rượu đế, tôi tự hỏi mua ở quán, chợ nào. Người
đàn bà uể oải cầm rỗ cá xuống cầu dừa. Bước chân
có lúc chợt ngập ngừng, chị ngoảnh mặt vài giây nhìn
về chiếc ghe ngoại neo gần đấy, bóng lá chập chờn
lắt lay trên mảnh chiếu phủ xác ông Ba.
Thời gian như ngừng lại
ở ngôi nhà độc âm này, mới hai hôm mà tôi có cảm
tưởng mình đã bị dính cứng ở đấy từ thời tiền
sử.
Sáng
thật sớm, ngoại buộc Thiết đưa tôi ra bến xe đò. Tôi
chần chờ, thoái thác, không muốn về Sài Gòn. Đã nghe
đài phát thanh loan tin tổng tấn công khắp cả miền Nam
kia mà. Ngoại nói ở trên đó yên rồi, còn nơi đây chưa
phân thắng bại. Mới có mười ngày thôi. Tôi muốn năn
nỉ xin ngoại và Thiết cùng về Sài Gòn. Nhưng như vậy
ai sẽ đưa ông Ba về quê ?
Miễn
cưỡng chào đôi vợ chồng, thưa
ngoại con đi,
tôi lẽo đẽo theo sau Thiết. Thiết dẫn chiếc honda,
thỉnh thoảng ngoái đầu xem, như sợ tôi biến đi đâu.
Cả hai lặng lẽ len lỏi qua những khu nhà chỉ còn là
đống gạch ngói vụn, mái tôn cong queo, cột kèo thành
than đen, đôi chỗ còn bốc khói. Đường lộ cũng không
một bóng người nhưng mặt đường ngổn ngang những đồ
vật không tên, xen lẫn quần áo, túi xách, rỗ thúng, có
cả cành lá cây xanh, cả gạch đá, bánh xe, vành xe.
Ra
tới bến xe, thấy dãy xe đò cháy rụi nằm trơ sườn
đen, tôi mừng lắm, muốn quay lui. Cho em về với ngoại.
Có anh nữa, em không sợ.
Thiết
lắc đầu, đề nghị : Anh chở đi cho một đoạn, em
phải về Sài Gòn bằng xe honda, ở đây không yên đâu.
Thiết
dựng xe, loay hoay đạp máy nổ. Tôi ngạc nhiên khi nghe
mình không giận hờn, thì ra tôi đã lớn, tôi đã nghiệm
ra rằng trong tình thế này, Thiết không cứu bồ nổi.
Chúng tôi chưa hóa bụi là may.
Bỗng
nhiên, tôi nhận ra tai mình hết điếc. Và kinh hoàng vì
xung quanh im lìm, vắng lặng. Chỉ có tiếng xe honda vừa
bật nổ giòn giã. Quả tình không còn một tiếng động
nào khác. Những ngày đêm bom đạn ầm ầm vừa qua có
thật không ? Sao bây giờ, chỗ này vẫn chẳng có
ai ?.
Xe
chạy chậm rãi vì phải quanh quẹo qua lại tránh những
đồ vật nằm vung vãi trên mặt đường. Đây là một
bãi chiến trường, đã cũ ?. Chúng tôi lướt qua những
miệng hố sâu, cạn, lớn nhỏ, những mô đất đá, vài
chiếc xe gắn máy cháy đen, những xe đạp ngã nghiêng,
vành xe cong queo. Những chiếc xe ấy, những giày dép, khăn
áo, thúng mủng ngổn ngang kia là của ai ? Sao không
một bóng người ?. Tôi sợ hãi vì tiếng máy xe quá
lớn, sợ hãi vì vẫn thấy chỉ có chúng tôi chuyển động
giữa khung cảnh lạ lùng này. Tôi muốn xe lướt đi thật
kín đáo yên lặng. Tôi áp mặt vào lưng áo Thiết, tưởng
tượng như được Thiết cầm tay dẫn qua cầu, dưới
chân là nước đang gào thét chảy xiết. Đấy là chiến
tranh ? Là « giặc giả » ? Là « pháo »
là « càn quét » là « bình định » vẫn
nghe thấy qua người lớn, qua báo chí, ti vi ?
Ôm
chặt bụng Thiết, áp sát mặt vào lưng anh, hít mạnh mùi
quen thuộc. Hối hận vì đã hai bữa không dám nhìn thẳng
anh. Tôi muốn xe chạy mãi, chạy hoài. Cơn sợ tan đi để
chỉ nghe mình tràn đầy tội lỗi vì cứ nhớ mãi, ôn đi
ôn lại những cử chỉ, bàn tay, những cái hôn, những
hơi thở dập dồn, những kêu gọi và trả lời, triền
miên chìm vào những giây phút đầu tiên yêu nhau, ngày
xưa và lúc bấy giờ, ngoài vòng cấm địa, trong vòng tử
địa.
Thiết
chợt nói :" Em nhắm mắt lại ! ".
Lời
nói như ra lệnh khiến tôi mở to mắt, tìm kiếm. Ngay
trước mặt nơi xe vừa trờ tới, một ngã ba đường,
một người bị trói đứng vào thân dừa ven lộ. Tôi
nhắm mắt lại nhưng đã muộn. Trong đầu đã in khằn
hình ảnh xác chết mặc quần áo lính, màu rằn ri loang
vùng máu đã khô đặc suốt từ bụng đến chân. Thân
người và tay chân đều căng phồng như muốn tung đứt
sợi dây trói. Mái tóc đen cắt ngắn với chiếc xoáy
tròn nhỏ giữa đỉnh sọ. Đầu người chết gục xuống
ngực như cố nhìn vào mảnh giấy ghim trên áo, tôi chỉ
thoáng đọc được hai chữ « bản án ...». Thiết
nhấn ga, đưa tay ra sau vỗ vỗ vào đầu tóc, vào vai tôi.
Gió vù vù bên tai không thổi đi được những gì đã
nhìn thấy. Tự nhiên, nước mắt tuôn chảy ràn rụa trên
mặt tôi. Tiếng khóc đầu tiên vỡ thoát ra, bay vào tai,
theo gió, giữ chặt bàn tay Thiết trên má.
Khi
Thiết dừng xe lại bên đường, lác đác quanh chúng tôi
đã có người và xe vượt qua mặt. Thiết thở phào, dặn
dò :" Em cứ chạy theo người ta. Anh phải quay về.
Sợ Ngoại lo "
Những
ngón tay anh vuốt mãi mặt mũi tôi. Như không còn một
lần nào khác nữa. Sẽ không còn một lần khác nữa.
Tôi
thẩn thờ ngồi lên yên xe, hành động như phản xạ, đổi
số, nhấn ga, quay mũi xe len vào dòng người đang chuyển
động. Thỉnh thoảng ngoái đầu nhìn lại. Dáng Thiết
đứng lặng trông theo còn hoài cho đến kiếp sau.
*
Tôi
hỏi Thiết : " Anh thanh toán cái đùi gà cách nào
?". Thiết bước đến hàng cây quýt con, chỉ cho tôi
những đoàn kiến vàng tất bật quanh những mẩu thịt gà
đặt cạnh các tổ kiến kết bằng lá. Gentleman farmer ơi,
sao anh không dùng phân hoá học như hàng xóm chung
quanh ?. Để hái tặng em những quả ổi to xanh mọng, bóng
láng và...nhạt thếch ?
Thiết
chợt nghiêng vai, ngón tay trỏ để nhẹ lên môi tôi, đưa
mắt hất hàm chỉ về phía trước. Tôi trở về thực
tại. Không, bây giờ gần ba mươi năm sau, hai đứa cạnh
nhau, bên bờ mương cũ. Đất đai lại thơm tho thanh bình.
Còn được như xưa không ? Năm ngoái, năm kia, tôi tự
trả lời rằng không. Còn cái
gì
được như xưa ? Năm nay, gan lì hơn, có phải vì càng
lúc càng bớt...ngu, với kinh nghiệm đời dạy, với thời
gian ít ỏi còn lại, với lòng tin...Có hay không ? Làm sao
biết được ? Chứng minh được ?
Tiếng Thà cười khiến
tôi giật mình. Không, tôi chưa tin mình lắm ở ...lòng
tin và sự quả quyết. Dù tôi tự nhủ, tiếng cười kia
không phải là tiếng súng. Chiến tranh đã chấm dứt gần
hai mươi lăm năm nay. Bé Bún chết từ lâu, dì Ngà đã
già nhưng trước đó dì sinh thêm hai đứa con khác lành
lặn đẹp đẽ khi cậu Tửu trở về sau ba năm đi tù cải
tạo. Tôi nghĩ mình đã hiểu tường tận những bệnh tật
do hoá chất, ô nhiễm, phóng xạ, do sinh lí di truyền, vi
trùng, vi khuẩn, tôi biết mình đã bớt ngu ngốc về...
một số chuyện, tôi đã...Và mợ Ba...
Cậu Ba không chết trước
đó như tôi tưởng. Cậu trở lại quê xưa với chiến
thắng và...vợ con mới. Mợ Ba bỏ về bên ngoại Thiết.
Hai năm trước, tôi đến thăm, mợ là chiếc lá khô mỏng
trên giường, hấp hối, chớp mắt cảm động khi thấy
tôi, chắc mợ nhớ đến những khúc phim đời huyễn
mộng, tôi tưởng chừng như mợ tủi thân, dường như có
cả hối hận. Không, chắc tôi tưởng lầm, năm trước
tôi thấy mợ cũng chẳng dịu dàng, thân thiện hơn đối
với vợ Thiết, người bạn gái cùng lớp đã bỏ nhà
vào bưng theo Thiết sau kì tổng tấn công đợt hai.
Thà lại cười. Tiếng
cười giòn giã, rộn ràng.
Tôi
nghĩ đến những lời nhắn của Lư, những lời tôi đã
nói với Thà. Tôi lịm người nhớ đến ánh mắt Thà.
Nhưng
không, Thà không xuất hiện và cũng không tuyên bố em
bắt gặp chị quả tang.
Tiếng cười Thà vẫn vang rõ xen tiếng nói đàn ông.
Đẩy
nhẹ tay Thiết vì anh muốn giữ tôi lại, tôi đi về phiá
những âm thanh lạ lùng này.
Thà
nghiêng mình trên chiếc võng vải treo giữa thân hai cây
cau ven bờ rạch nhỏ. Thằng bé con Thà ngủ say trong lòng
võng. Thà nhẹ tay đưa võng, rồi ngả người nằm xuống,
một tay gối đầu, mắt lim dim. Bên cạnh Thà, người đàn
ông lạ, ngực trần, quần đùi, ngồi trên đám lá chuối
dầy, vuốt ve thằng bé, đặt tay lên tay Thà, cùng đẩy
đưa võng và cất tiếng ca ư ử trong cổ họng.
Thà
ngồi dậy, vươn vai. Người đàn ông quay người lại, ôm
xiết và dụi mũi vào ngực Thà. Thà cười lớn, đứng
lên, nguẩy mông hích vào mặt người đàn ông rồi để
nguyên quần áo, bước xuống cây cầu dừa trầm mình
dưới dòng nước đục. Tôi lùi lại, nín thở.
Ngày
xưa, cũng tại chính khúc sông này, Thiết đã đốn thân
chuối tập tôi lội. Thiết đã cặm cụi đẽo gọt từng
nấc thang trên thân dừa, thả thân dừa nằm xuôi trên
bùn bắt cầu cho tôi xuống sông, ôm được thân chuối
mà chân không phải xắn vào lớp bùn dày. Thiết lót dài
những tàu lá chuối xanh từ bờ cầu cho đến chỗ tôi
đặt đôi giày xăng đan.
Tôi
nhớ đến nỗi lo không giữ lời hứa, đến cảm giác lạ
đốt nóng thân thể mỗi khi mắt Thiết đầy ánh lửa,
mỗi khi bàn tay Thiết đỡ nhẹ bụng tôi. Nhớ mợ Ba bĩu
môi : học gì học hoài mà vẫn chưa biết lội. Má
tôi lắc đầu « con nhỏ này tối dạ lắm chị
Ba ». Nhưng đôi ba năm sau đó tôi không thèm học lội
nữa. Kệ, chết bỏ ! Nói nghe ngon nhưng tôi biết
mình sợ. Sợ điều gì ? Sợ ánh mắt mợ ? Đến bây
giờ vẫn chưa biết rõ.
Chỉ
biết một điều vô duyên : những kẻ thông minh sẽ
không bao giờ chết đuối.
Người
đàn ông cười khà khà đứng dậy, nhẩy xuống nước.
Đôi nhân tình tội lỗi vẫy vùng, đùa giỡn ồn ào
không giữ gìn.
Thiết
vuốt ve bàn tay tôi. Tôi nói trong bụng : đừng sợ ,
đừng sợ. Bây giờ là ba mươi năm sau. Đừng sợ. Đừng
sợ. Hãy nhìn Thà.
Tôi
quay lại, tựa vào Thiết. Đôi vòng tay ôm xiết nhau lại.
Tôi buồn cười nhớ tới những giọt nước mắt Thà khi
nãy. Đúng là con quỷ con quá quắt. Và con quỷ già là
tôi chẳng vừa gì. Thiết cũng mỉm cười. Hai con mắt
long lanh. Hơi thở nóng vuốt ve vành tai tôi. Hết ngu chưa,
em nhỏ? Ừ, nên theo gương những đứa không tối dạ.
Không những không tối dạ mà còn can đảm nữa kia...
Thà
lên bờ, trút bỏ bộ quần áo ướt đẫm, nằm xuống
thảm lá chuối xanh. Chân co chân duỗi, mắt lim dim, chờ
đợi. Gò ngực trắng tươi ngồn ngộn. Mái tóc đen dài
toả ra xung quanh. Đùi bụng cong dài đường tuyệt mỹ.
Như vệ nữ của Titien, của Cézanne, của Renoir. Như
Antiope của Ingres. Tạm thời không còn là của Lư. Người
đàn ông ngồi tẩn mẩn trải những tờ giấy xanh trên
mình Thà. Như Jupiter, không, như anh làm vườn của lady
Chatterley. Đó là những tờ mười, hai mươi, năm mươi
đô la, toàn giấy mới. Gói tiền Lư nhờ tôi trao lại
cho vợ. Thà ậm ự dang tay ưỡn ngực, lắc mông. Mớ
giấy bạc bị lay chuyển, tờ rơi, tờ cố bám. Người
đàn ông bò bốn cẳng, cúi ngoạm từng tờ, để vào
những chỗ da thịt trống. Môi mũi hắn hít hà. Thà cười
khục khục trong cổ họng, tiếp tục uốn éo dẫy dụa,
rướn cong thân mình. Ôi, hai đứa quỷ con.
Như
chúng tôi của một thuở thần tiên đã mất. Tôi kéo
dừng đôi tay Thiết, đưa lên cho anh ôm lấy mặt tôi.
Trong một khoảnh khắc, nỗi sợ ngày xưa trở lại, tôi
bị hóa đá trước khi là nham thạch. Mợ Ba mất từ năm
ngoái, tôi chỉ còn một mình Thiết.
Thiết
hiểu ngay, sa sầm ánh mắt. Tôi tìm tôi trong mắt anh, cố
nhìn cho ra mình đang nhoè thành hai ba bộ mặt Dora Maar.
Thiết quay ngoắt đi, nói như dì Ngà thuở trước :"
anh biết em giỏi lắm !". Tôi nói tiếp trong bụng,
mắt mũi cay cay : "và mãi mãi tối dạ".
11/2000
cho Thu,
để
nhớ em, chim Én của chị,
lúc
nào cũng ở bên ngoài cuộc đời.
Inscription à :
Articles (Atom)