mardi 13 mars 2018

Chút gió còn lại



                                Chút gió còn lại

                                                                                                  Gửi On.
Mặt trời vừa khuất sau chòm cây dày đặc, chân trời hồng cam rực rỡ, đoàn người tù trở về trại. Những người đàn ông ốm nhom, áo quần tả tơi, mặt mày lem nhem u ám như bóng chiều đang dâng lên hai bên con đường đất đỏ. Những bóng ma lặng lẽ, ngậm ngùi, những tiếng đếm rời rạc, mỏi mệt như lời kinh đệm cho một mộ khúc câm. Một..hai..ba...bốn...Những con người  chỉ còn là những thân xác thờ thẫn rã rời, những tiếng thở dài theo con số ra khỏi những buồng phổi tong teo đầy bụi đỏ. ..Bảy...tám chín...Ðất cát, cây lá im tiếng thẩm thấu các âm khô rời rạc đều đều. Như tôi đang đứng lặng nghe ngóng và đón nhận. Tìm một chút thân quen. Ðoán biết trước khúc quành đầu tiên, ngã tư thứ nhất, thứ hai, rồi khu vườn cuối xã ngay trước bìa rừng thưa. Khi người tù cuối cùng và tên lính giữ tù đoạn hậu đã khuất, tiếng đếm còn mơ hồ  vọng đến, tan loãng trên khoảng mây vừa hết nắng. Ðôi lúc, tôi muốn hàng tường gạch hoặc một đoạn dây kẽm rào chợt mở ra, tầng mây xanh bỗng hé cửa, cuốn hút đoàn người rồi đóng lại thật nhanh, cho ngừng bặt những tiếng đếm ! Ðôi lúc, tôi muốn bay theo họ về đến ngôi trại xa xôi, nghe thấy họ nói chuyện, thở than hay ca hát...Nghe bất cứ âm thanh nào, khác hơn là tiếng đếm.
Trời bỗng vụt tối thật nhanh, như cố đuổi theo số phận mịt mờ của họ. Tôi nấn ná lại trong vườn, giữa những rãnh đất nhỏ ướt mềm. Nước đã rút từ mấy ngày nay, những dây tiêu vàng héo hắt còn sống sót, nhắc nhở trận lụt nhân tạo vừa qua, vì đê điều ao hồ theo lệnh được xây lấp quá tuỳ tiện. Lại một hậu quả của "dưới làm sai chính sách trên ". Mấy chục gốc tiêu chết úng trước khi cho hoa quả.
 Đất thơm mùi lá cỏ. Muỗi vo ve bên tai. Ve lớn tiếng rả rích tự bao giờ. Đàn chim về tổ muộn vừa bay khuất. Ngọn lá sầu riêng, chòm lá chôm chôm đã ngả màu chiều. Màn đêm sắp ngự trị. Tôi thở dài, chậm rãi đi dọc theo bờ rào dâm bụt. Bên ngoài, con đường đất vắng ngắt buồn hiu. Ô kìa, phải có âm thanh người chứ. Một tiếng đếm là một cuộc đời !
Lại một buổi chiều nữa qua  đi như bao nhiêu chiều đã qua, mang đi một chút hi vọng, bào mòn một chút đời sống. Ngày mai, tôi lại nghe những tiếng đếm người tù, lại cố gắng soi mói tìm một nét thân thuộc trên những gương mặt nhẫn nhục quắt queo đó để kiên trì khơi hi vọng, tìm lẽ sống.
 Hơn mười năm rồi tôi lặng lẽ ngắm bình minh, tắm hoàng hôn một mình. Hơn mười năm rồi, tôi chờ đợi, trông ngóng. Sự chờ đợi háo hức ban đầu đã nhường chỗ cho một chờ đợi thản nhiên, rồi dần dần ngập tràn tuyệt vọng. Mỗi buổi chiều, dường như khi đoàn tù vừa qua, là mọi cánh cửa đóng lại, lùi xa. Trong tôi là những trận chiến Sơn Tinh, Thủy tinh luân lưu bất phân thắng bại, mà tôi chẳng dính líu gì đến Mỵ Nương, tôi chỉ là chú tiều phu nhỏ, bất lực nhìn vận mệnh mình lên xuống theo mực nước thần thánh vô tình. Và mãi rồi, trong tôi cũng có hai con người. Một tôi tin tưởng mãnh liệt sẽ gặp lại chàng, một tôi khác, muốn rũ sạch tham sân si, cùng dì Sáu lên rừng cất chùa tu cho xong quách một đời. Cho nên, mỗi buổi sáng được khởi đầu bằng tin tưởng, mong ước, đôi mắt tôi đăm đăm nhìn về phía con đường đất đỏ liên tỉnh, trái tim sẵn sàng chào đón. Trái lại, chiều về, rời bỏ cây lá vườn tược,  tôi nấn ná thất thểu bên bờ rào, tôi chần chờ nơi bờ giếng, tôi đợi đoàn tù đi qua,  ngước nhìn đàn chim về tổ. Cho đến khi không còn nhìn thấy gì nữa, tôi mới chậm chạp quay vào nhà,  chân nặng, tim trống rỗng, hết hơi. Và chịu đựng đêm tối cô đơn, mộng mị. Chàng vẫn dặn dò đừng nghĩ đến anh, hãy lo cho con.

Những đứa con đã phân tán, hình ảnh đậm nhạt, lúc rời xa, lúc gần gũi. Chỉ có Việt viết thư, gửi quà về đều đặn, từ những giòng chữ nguệch ngoạc của những bức thư dài thủa ban đầu ở trại tị nạn cho đến bây giờ, lời thư chững chạc, trầm ấm tuy ngắn ngủi. Việt đi với chú trước một tuần, thoát được. Còn chàng, bị chận bắt trước giờ xuống bãi. Tội vượt biên, phản quốc, cộng thêm tội sĩ quan ngụy trốn trình diện cải tạo.  Từ đó, đời sống tôi trở nên tạm bợ cho đến khi chợt tỉnh táo lại, lúc Hiền, đứa con gái trở về.
Tôi cùng con về khu vườn đất đỏ mua chung với cha mẹ chồng trước đó. Mảnh đất hoang khai khẩn dở dang từ cuối mùa chiến tranh. Ngày xưa ấy ...và những dự định tương lai. Chỗ này trồng cây, chỗ nọ trồng hoa, chỗ này cho ông nội xây hòn non bộ, chỗ kia cho bà nội chuyển gốc mai...Nhưng những cỏ hoang, cây dại vừa dẹp, các thân cây con chưa kịp đặt vào lòng đất thì trận chiến cuối cùng xảy ra. Chớp nhoáng, bất ngờ. Điều ngỡ ngàng chưa qua, cơn vui hoà bình chưa trọn vẹn thì gia đình tôi bị phân tán. Ngỡ  ngàng ư ?. Mọi sự đã tuần tự diễn tiến, hợp lẽ con người, rất con người. Hoà bình nào phải là trồng cây, nuôi cá, sống an lành với chồng con. Hoà bình nào phải là xây dựng, hàn gắn những vết thương. Hà ! Tôi cười mình đàn bà, ngây thơ, vụn vặt. Trong một đất nước do bạo lực thống trị, do một đám anh hùng, kiêu binh, chất ngất quyền uy chính đáng và không chính đáng, lại khát khao rửa hờn, đòi hỏi những đền bù và tưởng thưởng công trạng thì thử hỏi làm sao có được một kết cục tuy bình thường nhưng cần một trình độ đạo nghĩa vua tôi Lý Trần ?
Chàng cũng không khá hơn, cứ tưởng tượng hoà bình là viết sách, là dạy học, là "vui với bình rượu quý " cùng bạn bè thản nhiên rộng lượng nhìn lại thời "chinh chiến cũ ". Cũng may, bố chàng, nhờ đã kinh qua hoà bình năm xửa năm xưa, ngăn không cho con ra trình diện. Ông nghi ngờ cái lượng khoan hồng hứa hẹn lúc ban đầu của người chiến thắng. Tự ban cái quyền có lượng khoan hồng không phải là một bằng cớ của tự kiêu ngạo mạn đó sao ?
Nhưng cuộc trốn tránh chỉ kéo dài được gần hai năm. Đòi hỏi chút tình người nơi "thần thánh"? Thứ thần thánh mà vô cùng con người phàm tục đòi hỏi cho kỳ được công ơn và nhất định báo đáp hận thù.
   Hai năm sau, bố mẹ chàng lần lượt qua đời. Nam, đứa con út của chúng tôi cũng bỏ nhà ra đi. Hiền quả quyết rằng Nam sắp được bảo lãnh từ đảo sang Mỹ với anh Việt của nó, nhưng tôi linh cảm chuyện không hay, dường như các con dấu giếm điều gì...Kiệt sức nhưng tôi cứ sống lây lất bám víu vào một chút ước mong mơ hồ. Cho đến lúc Hiền bỏ nhà cô, trở về ở hẳn với tôi. Đứa con gái đã lớn khôn, chín chắn, đôi lúc già dặn hơn so với tuổi. Tôi bàng hoàng nhận ra mình đã thiếu nghị lực, đã  vô tình bỏ quên mọi thứ khi một nửa đời sống bị cướp mất. Hiền trở lại như tiếng chuông thức tỉnh. Vài người thân trong họ cũng tìm về nương náu. Hai mẹ con gắng gượng tổ chức lại cuộc đời. Ươm hạt, tháp cây, vun trồng, thu quả.  Tiếp tục sống, để đợi chờ. 
                                                            *
Chợt có tiếng chân dẫm lên đá sỏi lạo xạo. Tôi quay lại. Bên ngoài cổng, trên con đường ngập bóng tối có tiếng chân người đang tiến đến. Dáng người  gầy gò, cao và đổ nghiêng về phía trước, mỏng manh như một bóng ma. Cánh đồng phía sau hất lên ánh chiều tàn thoi thóp khiến tôi không nhìn được gương mặt người lạ. Tôi chợt lạnh người. Khách vừa thấy tôi, bước chân như ríu lại, lưng người như còng xuống hơn, chiếc đầu tóc ngắn càng xiêu ngã hơn về phía trước, khách cất tiếng, giọng  run run, nhưng trầm lại, ấm áp ở cuối câu :
- Má Việt, má Việt ...em...em...phải không?
Chân tôi khuỵu xuống, tim đập thình thịch, máu nóng chạy rần rật khắp người, tôi lắp bắp không ra một âm thanh nào. Giọng chàng càng trầm xuống, thiết tha :
- Anh đây...
Tôi không ngăn được ngọn sóng êm đềm trào dâng thành  những dòng nước mắt nóng hổi, đôi chân mềm nhũn, không còn cảm giác, tôi quờ quạng níu lấy những cành lá xung quanh, cố gượng dậy và chợt nghe tiếng mình hối hả, hổn hển :
- Hiền ơi...Hiền...Hiền...Con ơi...Ba về...
Những âm thanh thều thào, yếu ớt. Dường như Hiền đã chực sẵn gần đấy, tôi nghe tiếng con  vui mừng rối rít, tiếng chân chạy, tiếng loảng xoảng của chùm chìa khoá.  Hiền chạy ra phía cổng, vừa nói vừa khóc, vừa cười vừa kêu, vấp ngã mấy phen trên đoạn đường ngắn dẫn ra cổng. Hiền loay hoay mãi vẫn chưa mở được ống khoá trên sợi xích sắt, tôi gắng gượng định thần lại, đến gần  thì vừa vặn lúc cửa được mở tung. Hiền ào ra. Chàng ôm con rồi quàng tay vòng nghiến vai tôi. Những ngón tay thân thương an ủi, vỗ về. Tôi nhắm mắt, ngây ngất, hít mùi thân yêu. Trời ơi, trời ơi...Chim quyên ăn trái nhãn lồng...Hơi thở tôi đây rồi, đời sống tôi đây rồi. Tạ ơn trời, tạ ơn Phật, tạ ơn Chúa. Tạ ơn kẻ thù. Tạ ơn người tài xế, tạ ơn chiếc xe nào đã đưa chàng về đây. Tạ ơn những bạn bè đã chia sẻ miếng ăn, đã vun trồng hi vọng để chàng còn sống sót trở về.
Hay đây chỉ là giấc mộng ? Thứ mộng đôi ba lần khiến tôi bẽ bàng tuyệt vọng. Không, xung quanh tôi không có gì biến đi. Tiếng khóc của tôi, của Hiền, có thực ; tiếng nói chàng êm ái, rõ ràng, rất thực, như những ngón tay khô nhám đang xoá những giọt nước mắt trên mặt tôi. Bàn tay với những ngón dài  bấm lướt trên cây đàn mandoline của thời mới yêu nhau...khoan khoan hò ơi, thuyền về tới bến mơ rồi...khoan khoan hò ơi...Tôi nắm chặt tay chàng, tôi ôm cứng tấm lưng xương xẩu. Tôi như mê đi. Hạnh phúc đang ở vòng tay nhỏ bé của tôi đó ư ? Dễ dàng, tự nhiên mà bất ngờ êm ái như vậy sao?.  Vợ  chồng chú Út cũng chạy ra đón mừng, thím Út khóc oà lên. Thằng Tâm, con chú, giơ cao cây đèn dầu, nét mặt ngỡ  ngàng, sung sướng chia sẻ.
                                                                          *
Đôi lúc tôi hoảng sợ vì nghe thấy tình trạng lâng lâng thơ thới kéo dài. Cái hạnh phúc quá rõ ràng nào cũng nguy hiểm, như mời gọi những sấm sét hờn ghen. Của người. Của quỷ ma, thần thánh. Nhưng làm sao ngăn chận che giấu? Tôi đang sống lại, chàng đang sống lại. Một đời sống trọn vẹn, mới mẻ. Tôi hối hả, ham hố, tận hưởng từng giây phút. Hơn mười năm của chúng tôi đã bị bôi bác, cắt xén, đè bẹp đến tận cùng. Ðủ rồi ! Cám ơn hoài những chủ ngục chợt từ bi, nhưng từ đây, kể từ bây giờ, tất cả là của tôi, một giây, một tích tắc tôi cũng không để vào tay các người. Mười năm, đã quá đủ !.
Tôi dựng những vòng rào vô hình và hữu hình xung quanh ngôi vườn nhỏ, xung quanh chàng. Đừng ai hòng len được vào đây. Đừng hòng. Tôi thách thức bạo lực, tôi thách thức quỷ ma, thách thức thần thánh đội lốt con người.
Mỗi ngày bắt đầu là một ngày cực kỳ trọn vẹn, cực kỳ êm ái. Anh thấy cây nhãn của em không? Anh có biết hồi Tết cây mai của mẹ ra đầy hoa ngày mồng một ? Việt cao lớn, cái mũi giống em nhưng đôi mắt là của ba nó đấy. Ba ơi, hình con gái ba thuở làm thanh niên xung phong đây...Anh ơi...Ba ơi...
Tôi chợt nhận thấy ít lâu nay tôi không còn ngắm chiều về với đoàn tù trở lại trại. Vì mải mê với hạnh phúc hay không muốn gợi lại hình ảnh quá khứ cho chàng?
                                                                              *
Nhưng dù muốn dù không, tất cả đều nhắc nhở thúc giục. Quá khứ chàng mới mẻ còn đầy những dính líu với hiện tai. Phải đi trình diện, khai báo. Chàng đi ra phường. Tôi treo trái tim trên hố thẳm nghi ngờ lo sợ, chàng về, tôi mừng chảy nước mắt khi ra cổng đón. Mừng hơn nữa khi thấy nét mặt chàng thản nhiên. Ừ, mười năm rồi, thằng bé con công an không giống bọn đồng nghiệp cũ thuở trước. Ngày đó những kẻ bình thường giản dị bỗng  khám phá ra mình khổng lồ với một quyền hành quái đản, nắm trong vận mạng kẻ khác,  phán quyết chuyện chia ly hay đoàn tụ, định đoạt tương lai trẻ con.
Bây giờ đã bắt đầu những đổi thay nhưng là đổi thay nào, và cho dù nhẹ nhàng hay dữ dội, nhức nhối hay nghịch lý, căn bản hay giai đoạn, đổi thay nào cũng nhắc nhở quá khứ, lôi kéo về những lấn cấn bất an.
Quá khứ nhục nhằn, kỷ niệm đớn đau hay mất mát là những kỷ niệm, quá khứ làm nên đời sống trọn vẹn,  muốn đổi thay, tô hồng, bôi đen là..kẻ chiến thắng  (không lương thiện), là muốn làm thần thánh. Sống là đi về phía trước nhưng không ngừng ngoái nhìn về phía sau. Sống, không thể là cứ phải mãi kêu oan hay biện bạch.
 Mười năm xa cách của chúng tôi, của Hiền trở thành ba mươi năm đầy những tâm tình những sự kiện riêng tư để kể cho nhau, dù với tôi những gì đã qua chỉ có ích ở chỗ giúp cho cuộc sống hiện tại thêm ý nghĩa. Những gì đã qua là bóng tối, phải bỏ vào bao ngăn cách, cất đi sang một bên.                    
Điều quan trong duy nhất là bây giờ, nơi đây và có nhau.
Những rắc rối, khó khăn dĩ vảng của tôi và Hiền, kể lại, trơn tuột, dễ dàng, nhẹ nhàng như chuyện cổ tích có hậu, còn chàng, mỗi khi phải nhắc nhở, giải thích, chàng  loay hoay khổ sở. Đôi lúc, tôi có cảm tưởng-rất bất công- chàng là một phạm nhân tuy đã đền xong tội hình, nhưng ra khỏi tù vẫn bị ám ảnh, bị lôi xệch về đối diện với một thứ mặc cảm tội lỗi nào đó. Cho nên, cũng như Hiền, tôi chỉ loanh quanh, lẩn quẩn ở chuyện thành phố, vườn tược và hiện tại, và tương lai. Còn mười năm ngục tù, rừng núi của chàng lại chỉ là những chớp mắt ngắn ngủi, những thoáng nhìn rất gián tiếp.
Nhưng tôi biết rồi đây chàng phải quay lại nhìn vào quá khứ, phân tích, quan sát và chấp nhận nó, phải cầm dao cứa thẳng vào nơi ung độc, phải dí thanh sắt nung đỏ vào vết thương, phải rứt bỏ những mảnh thịt da thối rữa. Phải sống. Nhưng tôi cũng biết, vết thương chàng chưa lành, nỗi đau còn sắc cạnh, cho nên tôi khắc khoải lo âu, phập phồng lắng nghe từng hơi thở, theo dõi từng cử chỉ, ánh mắt của người yêu ; tôi  lo toan, tôi sẵn sàng một mất một còn với kẻ thù vô hình cuối cùng.

                                                                                    *
  Thưởng đến như một cơ hội giúp chàng nhìn về những ngày tháng tù tội. Thưởng, một người bạn đồng hành kém tuổi mà chàng rất quý trọng và thương mến, tìm đến chúng tôi vào một buổi trưa nắng gắt, sau mấy tháng trời lang thang ở Đà Nẵng không tìm được dấu vết gia đình.
Phải nhìn chàng cười lớn tiếng mỗi khi Thưởng nhắc đến một giai thoại éo le, khôi hài của thời gian tù tội mới hiểu được niềm hi vọng đang lớn dần trong tôi. Chàng sẽ hồi phục. Chắc chắn chàng sẽ dần dần hồi phục. Những bữa ăn đầy đủ, ấm cúng đã khiến chàng hồng hào đầy đặn. Thì rồi đây, sẽ đến lượt những kỷ niệm đau đớn, những uất hận sẽ lắng xuống sẽ dịu lại, sẽ được đẩy ra xa, gạt sang một bên. Những buổi đập đá, đốn gỗ, chặt nứa. Những đêm nằm trằn trọc vì lạnh, vì đói, vì nhớ thương, vì oán giận. Những buổi học nặng nề mà phi lí, siêu thực, những thày những trò bất đắc dĩ, những khuôn mặt hèn hạ, những tâm hồn nhỏ nhen, vụn vặt, những tấm lòng quảng đại, những con tim bất khuất. Những Long Giao, Suối Máu, Sơn La,  Nghĩa Lộ, những Ba Khe. Tất cả sẽ trở về rõ nét, như những hình ảnh cuối cùng trước khi sang một thế giới khác  hứa hẹn sẽ vẹn toàn hơn.
 Hãy nhắc nữa đi anh,  hãy nói về quản giáo, cảnh vệ, về kiểm thảo, thu hoạch, kê khai lý lịch ; hãy kể nữa đi anh, về những con dốc trơn,  những giòng suối đục, trong, về những thứ ti tiện nhất của con người cũng như những hành xử cao thượng nhất. Hãy nhắc hoài đi anh, để có thể cười lớn, để có thể tách rời, để giải trừ oan khiên.
 Nhiều khi, tôi có cảm tưởng nếu không có Thưởng, chàng sẽ không bao giờ kể lể ngọn ngành mọi chuyện. Như thể Thưởng giúp chàng thêm can đảm, như thể thiếu chứng nhân thì không ai có thể chấp nhận những lời khai của chàng. Có lẽ chàng nghĩ chúng tôi không đủ sức tưởng tượng những tàn ác, nghịch lí dường ấy, như thể trên đất nước này chưa bao giờ có những nghịch lý không thể tưởng tượng được. Nhưng thôi, một lần nữa, điều quan trọng là bây giờ, nơi đây...Oán cũ, thù xưa...tôi khoát tay cho bay theo gió !
 Dù mỗi lần nhắc nhở là mỗi lần bồi hồi thương cảm, trời ơi, mười năm đau đớn, cô đơn của tôi nào có thấm thía gì. Đàn bà yếu mềm nên bão tố, lụt lội, bạo tàn tràn qua không làm gãy đổ, còn người yêu của tôi, cứng nhắc với danh dự, tự ái, với những danh từ dao to búa lớn nên chỉ một trận chiến bại là tả tơi tâm hồn lẫn thể xác. Hãy nhắc nhở không ngừng đi anh, để rồi vài ba năm nữa, trái tim anh sẽ nhẹ, đầu óc sẽ trong sáng, tiếng cười anh sẽ sảng khoái, ánh mắt sẽ cảm thông, tha thứ...Hãy trở về với chính anh của thuở trước, hãy lại là anh của em.

                                                                             *
Chàng kể:
- Có lần, anh ước được về với em, ăn đủ mười bữa cơm, rồi ...chết cũng mãn nguyện.
Tôi mỉm cười vuốt ve những ngón tay chàng để khỏi khóc:
- Thèm ăn gì nào, hãy "kê đơn" cho mẹ con em...
Hiền mở to mắt, phụng phịu :
- Mươi bữa thôi sao ba ?Vì "đất nước ta còn nghèo "? Cứ nêu cao nguyện vọng, nhà nước má-và-con sẽ thực hiện. Nói và làm...mạnh. Nói và làm... thiệt!
Thưởng gượng cười:
-Đói là một tình trạng rất...khó chịu,  nó khống chế, đè bẹp con người. Không giải quyết được thì không ai có thể nghĩ đến chuyện khác.
Hiền cười gằn:
- Ba có biết là lãnh tụ đã từng đính chánh : nước ta bây giờ không chết đói như thời bị  Pháp Nhật đô hộ....; dân đen vỗ tay : hay lắm, đúng lắm chỉ có ...đói đến chết mà thôi! Nghèo đói thì mới  có căm thù giai cấp, mới có đấu (tố) tranh! Nghèo đói mới trong sạch được, một quan niệm thật bệnh hoạn. Cho nên thằng địch giàu là thằng địch rất...địch, rất đáng chết !
Chàng trầm ngâm một lúc rồi gật gù:
- Hôm nào có quà nhà thì đêm đến có đủ chuyện, kẻ sụt sùi, người tủi thân, rồi cãi cọ, đổi chác. Rồi ước ao... Rồi hi vọng, cố nuôi hi vọng để chịu đựng khoảng thời gian mịt mù phía trước.
Đôi khi chàng hoặc Thưởng kết thúc buổi tối bằng tiếng thở dài:
-Thằng X. chắc là khó sống. Ông Y. con người khí khái và cương quyết. Thằng quản giáo Z trung hậu, lương thiện...
Một chút tiếc nuối trong câu nói khiến tôi bàng hoàng lo sợ. Chàng và Thưởng, nhất là Thưởng, sống nhờ vào một hi vọng  nào đó. Và hi vọng này khác vô cùng với hi vọng tôi đã có. Đó là khát khao hướng thượng của con người hay chỉ là một thứ tham sân si, cũng rất đổi con người?
Tôi phải làm sao ?

                                                                    *
Chàng trở về với đời thường, lúc ban đầu, bằng bữa trở lại thăm ngôi nhà cũ ở Thủ Đức.  Rất hình thức, đứng ngoài ngõ ngó vô...căn nhà đã đổi chủ. Ngó tới, ngó lui, tìm kiếm, tưởng tượng. Chú Thưởng thấy không, cái sân gạch, bên góc trái  ?  Chỗ đống củi là hòn non bộ của ông nội bọn nhỏ. Bên cạnh, chỗ những chiếc xe đạp và chiếc xe hongđa cũ, là vườn hoa con của bà nội. Phía sau nhà khoảng sân chơi nhỏ không còn, chắc thành chuồng heo hay chỗ nuôi gà qué vì những âm thanh và mùi đặc biệt. Hiền nhắc nhở :
- Ngày trước còn kinh hơn nữa ba ơi, đường phố hoa lệ cũ,  "rực  rỡ  mang tên người" mà đầy những người rách rưới, nhếch nhác, thất thiểu bồng bế nhau trở về từ những vùng kinh tế mới, từ miền quê xa. Lề đường bẩn thỉu, hôi hám vì nước tiểu, phân. Phân người. Phân heo. Nước rửa chuồng heo từ những ngôi biệt thự đường bệ. Riêng chuyện này thì bây giờ hết rồi. "Thiên hạ" bắt đầu đua nhau sống đời văn minh, đi tắm hơi, tắm hồ bơi, ăn nhà hàng, xem vi đê ô con heo. Còn chuyện nuôi...heo để lại cho bọn tiểu tốt, dân đen. Bây giờ là "tới hồi thới lai", phải hưởng thụ cho bỏ...Bởi vì  chết xuống âm phủ, biết có hay không! Bọn tư bản coi vậy mà cũng có những cái hay hay...đáng theo, đáng bắt chước lắm.
Cảm thấy giông tố sắp tới, tôi cố ngăn, giọng không bằng lòng :
- Hiền ơi, má mong rằng họ giàu thêm nữa, giàu thêm hoài. Nếm cho kì hết những sung sướng, xa hoa, nhũng phồn vinh thật hay giả. Để không còn ganh tị, oán thù. Để họ quên chúng ta đi, để yên chúng ta.
Hiền lầm bầm:
- Rồi thì cũng phải để yên, dù muốn dù không : chúng ta có còn gì nữa đâu. Nhà cửa. Của cải. Tương lai. Hi vọng. Chúng ta yên tâm đi vào ngõ cụt. Sống như đã chết !
Tôi lắc đầu:
- Không bất công, bạo lực nào dập tắt vĩnh viễn được đời sống.
Thật vậy miền đất này vẫn dập dìu sự sống. Nơi đất đai khô cằn hay thành phố nắng bụi. Như những mầm cây non tôi vẫn nâng niu mỗi ngày, những nụ xanh nõn, vươn lên, trổ những cuống lá sum suê, cành nhánh chi chít những quả non. Như những giòng người, xe đen đặc, ồn ào. Những Hiền, những Nam đi đứng, giòn giã nói cười, gọi nhau, ăn kem, uống nước mía. Như những dây người kiên nhẫn xếp hàng trước các cửa hàng, rạp hát. Đời sống náo nhiệt, dập dìu như chưa hề đã có lần bị xáo trộn hay cắt đứt.  Rõ ràng chỉ có những cái nhìn dĩ vảng, trong những gian nhà tối om ám khói mới có những băn khoăn xao động.
Chàng không đồng ý:
- Cây non còn tiềm lực của hạt mầm, không có quá khứ và hậu quả của cành lớn gãy đổ, nhưng quá khử là nền là bệ phóng của tương lai. Và tương lai là tương lai chung của mọi người. Rồi em xem, người ta có phải là cỏ cây đâu mà em nhổ cây này, bón cây nọ, chọn cành này, hắt hủi nhánh kia ? Anh ngại rằng...
Thế là lại đưa về những đề tài đang ăn mòn hai người đàn ông. Những hứa hẹn cũng như những hy vọng, đều rất trái ngược với thời sự hiện tại và nóng bỏng. Tôi gắng gượng lạc quan, cố lôi kéo mọi người ra khỏi cái không khí nặng nề, đầy đe dọa nhưng càng ngày càng thấy mình bất lực, càng lúc càng lung lay cái niềm tin vào một khởi hành mới mẻ.
Buổi sáng Thưởng hay đi về thành phố nghe ngóng. Chàng ở lại chăm sóc vườn cây với những phút ngẩn ngơ ngưng đọng, đôi mắt vô thần, hai bàn tay run rẩy mỗi lần có chuỗi tiếng đoàn tù nhân về ngang khu vườn. Tôi muốn hoà nhập vào chàng để hiểu rõ nỗi băn khoăn, chia xẻ cơn đau.  Tôi muốn hôn lên đôi tay kia, ôm lấy chàng, ru ngủ, trấn an, đưa chàng về thực tại. Nhưng đoàn tù vẫn đều đặn đi về, nhắc nhở chì chiết với những tiếng đếm dõng dạc mà cam phận, vô vọng. Tôi cũng không ngăn được những tờ báo, những tin tức nối liền chúng tôi với thế giới, đời sống bên ngoài. Đời sống nào cho hai người tù cải tạo ? Công việc nào ? Một mảnh đất nhỏ, dăm ba cuốc xẻng, vài cây con, gói hạt giống ? Mười năm tốt đẹp dường như đã ở sau lưng, cho nên đôi bàn tay, khối óc mớ kiến thức còn lại, dường như trở nên vô ích, vô dụng. Hiền đề nghị mở trường dạy học, mở lớp luyện thi, nhưng dự định không được phép của làng xã.
 Hiền hằn học:
-Một đất nước anh hùng, những trí tuệ ngất trời, một kỷ nguyên mới ? Một thời đại huy hoàng, một tấm gương cho thế giới ? Mà đối xử với nhau tàn tệ, phân biệt như thế này ? Tự phong làm vua để rồi con cái được quyền nối ngôi, làm cha trăm họ !  
Chàng trầm ngâm:
- Như dân Do Thái và dân xứ Palestine.
Thưởng cười cười:
- Khác chứ anh !Làm sao bắt hai giống dân khác nhau phải thương yêu và đối xử như cật ruột, khi họ quá khác nhau về đạo, về đời, lại muốn cùng một chỗ đất lành dung thân ?
Tôi thở dài:
- Mọi bất công là tại đất nước này quá nghèo. Thiếu phương tiện vật chất để trả công, đền ơn, tự ban thưởng thì các đại tiểu công thần phải tạo ra khó khăn, khác biệt.
Thưởng lại cười:
- Nghĩa là coi đất nước này và tương lai của nó như một chiến lợi phẩm ? Chia chác, khai thác theo các bậc thang công trạng do chính người trong cuộc tự định đoạt, phân xử. Nghĩa là hễ nghèo thì không còn công bình, nhân đạo, rộng lượng với nhau ?   
Hiền vẫn tiếp tục nói theo dòng suy nghĩ riêng :
- Tàn ác nhất là những kẻ bắt trẻ con gánh lấy hậu quả tội lỗi của cha mẹ. Tội lỗi có thật hay tưởng tượng.
Chàng thảng thốt nhìn con. Tôi nín thở, nghe như đất trời bỗng tối sầm lại, dông tố tới rồi. Hiền khoát tay :
- Con sẵn lòng gánh hết tội lỗi của ba, nếu có, nhưng con vẫn khinh bỉ bọn người đánh lừa, đặt điều kiện nghiệt ngã với trẻ con.
Tôi quay lưng cố nén tiếng khóc, ân hận không cùng. Kẻ chiến thắng đã đặt để điều kiện, đã gian dối khiến lũ trẻ lăn lưng vào những hy sinh vô ích, để chúng  quên đi hay chấp chận nhũng áp đặt (vô) lý tình (láo khoét). Trong cuộc chiến vừa qua và cả trong mọi chiến tranh làm sao mà chỉ có một bên có độc quyền đau khổ và mất mát ? Nhưng chính tôi đã bất lực, đã không cứu được con, còn dám trách ai ?
Hiền vẫn vô tình cao giọng:
-Những hy sinh, mất mát, mọi công trạng lớn nhỏ sẽ không còn ý nghĩa cao cả khi đòi hỏi những đền bù hoặc già hàm khiên cưỡng để biện minh những đền bù trên mất mát của kẻ bại trận. Dù là mất mát tự nguyện, nói chi đến mất mát oan ức vì bị cướp, bị chiếm đoạt. Nếu con là con cháu của kẻ cướp kia, con sẽ vô cùng xấu hổ. Đi bằng đôi chân kẻ khác ư ? Chễm chệ chiếm ngự mái ấm người khác ? Ðến đích bằng tim óc, bằng tài ba, bằng linh hồn của kẻ khác ư ? Trời ơi, xấu hổ một đời dài !
Tôi run rẩy thu xếp những tờ báo. Làm sao hoá giải những oán thù uất ức ? Làm sao xoa dịu những đớn đau quá sâu xa, hằng khắc ? Càng lúc tôi càng thấy mình quá lạc quan ngây thơ. Tất cả bỗng chợt im lặng. Không khí đông đặc, nặng chì. Hiền cặm cụi tô vẽ bài học cho Tâm, chàng cầm tờ báo spunich nhưng ánh mắt xa vời bay vờn phía ngoài cửa sổ. Thưởng mân mê chiếc "bùa hộ mạng" đeo trên cổ. Mỗi lần có điều suy nghĩ, Thưởng hay tần mần nâng niu vuông vải tí hon đã sờn cạnh và cáu bẩn với một mặt màu vàng, mặt kia nâu. Đó là tất cả gia tài, kỷ niệm gia đình người chị ruột duy nhất để lại. Bà dì Thưởng, cả một đời ăn chay nằm đất, đã đọc kinh, gõ mõ và phát nguyện quy y, miệt mài thỉnh cầu bùa chú cho đám con cháu một chuyến vượt biên an lành. Có lẽ là chiếc bùa duy nhất linh thiêng nên chỉ có Thưởng sống qót trở về. Mỗi lần nhìn Thưởng ngắm nghía nó, tôi rùng mình nghĩ đến những người xấu số và tự hỏi Thưởng sẽ còn có một giai đoạn tốt đẹp nào trong một định mệnh nhiều hoạn nạn ?
Bắt gặp tia nhìn tôi, Thưởng bẽn lẽn nói lảng :
- Có lẽ chúng ta chỉ còn một cách duy nhất là nghe lời lãnh tụ, cùng nhau "đổi mới tư duy"
Hiền ngẩng lên, giả giọng nhiệt thành:
- Ai đổi mới ? Ðổi mới những ai ? Ba với chú đã đi học rất lâu. Con cũng vậy ! Bây giờ đến lượt những người chưa bao giờ biết đổi thay chứ ! Xin nhất trí ! Đổi mới ti vi ? Đổi mới "tủ lạnh"?  Ðồng ý ! It ra là phải đổi mới đám "tủ lạnh", cũ hư cả rồi, chẳng làm lạnh mà còn phun đầy khí độc, làm thủng cả khí quyển, hỏng cả tương lai...trái đất. "ti vi " thì cứ từng ấy bài bản từng ấy hình ảnh, âm thanh. Nhàm !
Rồi bỗng đổi giọng gay gắt:
- Con chẳng mong ! Đổi mới kiểu "xử lý nội bộ", làm kinh tế lỗ lã thì sang y tế, ở hải quan tai tiếng quá thì sang ủy ban khoa học, chỗ nào cũng là đất dụng võ cho kẻ trước sau như một! Bất tài tham nhũng thì ở chỗ nào có uy quyền họ cũng sẽ tham nhũng, bất tài. Đổi mới như vậy chỉ là những hoán chuyển ồn ào, vô nghĩa, là đổi kẻ chia nhau bánh thật, còn vụn bánh và bánh vẽ thì bố thí cho bọn dân (ngụy) đen ngu ngốc bất tài bất lực, lý lịch tối om ba đời vẫn không đúng chuẩn.
Thưởng chán nản :
 -Nghĩa là những nạn nhân hãy cố quên rằng mình là nạn nhân, hãy chỉ biết bằng lòng đã sống sót trở về, rằng hãy cùng còng lưng xây dựng đất nước và sống bằng những lời ca ngợi khuyến khích rất tốt đẹp của những bộ óc siêu việt. Nói mãi điều mong ước sẽ trở thành hiện thực...Phải rồi, không nói không nghe thì chỉ còn cách quên hết, quên hết...
                                                         *
Có phải bi quan và tuyệt vọng cùng cực mới khiến người ta có cái nhìn phiến diện ? Ðến xóm   Yên, cô ruột Hiền, ngày hai cô cháu còn ở chung, tôi vẫn thấy ở căn nhà đối diện, người đàn bà nhỏ con, loắt choắt, tóc thưa bới thành một nắm nhỏ như bàn tay trẻ con, gương mặt trầm buồn, xương xẩu, không tuổi. Từ sau 75, chị  từ Bắc vào với một người chồng hay mặc cái áo lính cũ, đi khập khiểng, một đám con ba bốn đứa leo nheo lóc nhóc và một bà cụ già ốm tong teo, lưng còng, tóc trắng, răng đen. Mỗi lần tôi chào, chị cười đáp lại, đôi mắt có một chút ngỡ  ngàng, nhút nhát, rồi cúi xuống cái thùng kính nhỏ với nhũng bao thuốc lá, vài lon nước ngọt. Người chồng vẫn đi về với chiếc xe đạp đen thui mất vè mất thắng. Đứa con gái lớn, tong teo   cọng kẽm, sáng sáng mang thùng đi quanh xóm lấy cơm canh thừa, vỏ khoai, rau cải vụn về cho heo ăn. Tuyệt nhiên không thấy ở xóm nhỏ này những công tử, tiểu thư, quận chúa, hoàng tử hậu duệ vua chúa công thần, diện đẹp đi học đi chơi trên những chiếc honda mới toanh hay xe hơi bóng lộn hiệu Liên xô, Mỹ, Pháp, xe tư hay xe công. 
Có phải chỉ cần thay đổi cách suy nghĩ (và lãnh tụ) và nơi chốn để suy nghĩ thì mọi bất công, hiềm thù, mọi hậu quả của hơn  mười năm kinh hoàng sẽ biến mất như bởi một phép lạ ?
 Phải làm sao khi  nhũng tín hiệu cầu cứu thắp đầy lên ở chung quanh ? Khi tôi cũng chỉ là một tiếng kêu cứu không âm thanh, không ánh sáng.

                                                                        *

Thưởng đi thăm người dì hơn một tuần chưa thấy về. Hiền bồn chồn ra vào trông ngóng.
Ngày thứ mười, chàng và tôi quyết định đi tìm.
Bà ni cô, người dì Thưởng, mếu máo :
- Ở chùa được vài hôm, nó lại đi. Tu không được mà sống đời thường cũng không xong, tội nghiệp, thương quá,  nam mô....
Theo lời chỉ của bà, cuối cùng chúng tôi tìm thấy Thưởng trong lăng Ông Tả Quân họ Lê. Thưởng nằm dài dưới gốc một cây kè to. Rải rác đó đây, trên cỏ, dưới những bóng mát cây xanh cũng có vài bóng người, nằm ngồi, lặng lẽ, thản nhiên. Thưởng ốm và mét vàng hơn vì  màu cây ở xung quanh, chiếc áo sơ mi trắng cũ thùng thình không cài nút cổ, mảnh bùa phập phồng mệt mỏi lên xuống theo hơi thở dồn dập. Thưởng chậm chạp chống tay gượng dậy, tựa lưng vào thân cây cổ thụ, gượng cười chào chúng tôi.
Chàng bối rối lắc nhẹ vai Thưởng:
-Đi về nhà thôi chú! Bỏ tôi một mình làm vườn sao nổi ?
Thưởng chớp mắt, nhìn nơi khác:
- Lâu quá không xem báo. Anh chị thấy lãnh tụ xuống chưa? Tư duy thiên hạ đổi chưa ?
Tôi nghẹn ngào :
- Về nhà đã chú ơi...Hiền, Tâm, chú thím Út...ai cũng mong chú về...Nhà vắng chú...buồn hiu...
Chàng cố gắng :
- Hãy thong thả...Thưởng cũng biết, mọi đổi thay cơ bản đều cần thời gian...
- Anh muốn nói chúng ta đã mất mười năm, thời gian không còn nghĩa lý gì nữa phải không ? Một thế hệ thì ăn nhằm gì, cứ thong thả tàn phá, thong thả thử nghiệm và thong thả hi sinh đến  cuối cuộc đời của người...khác?
Nắng chiều bỗng nặng nề phủ chụp quanh chúng tôi, những tiếng động ngoài đường như bị chận cả ở bên kia hàng cây rậm, không một gợn gió, những tàu lá im lìm.
Chàng dúi vào túi Thưởng xấp giấy bạc đen cũ, tôi đặt gói giấy xuống nền cỏ :
- Hiền gửi chú mấy trái chôm chôm đầu mùa, cái cây Hiền trồng hồi cháu mới mười tuổi, chỗ hàng rào ngay sau nhà đó chú...
Đi nhanh theo chàng ra khỏi cổng lăng, tôi nghe mình mệt mỏi vô cùng. Phải chi Hiền cùng đi với chúng tôi. Biết đâu nó sẽ thuyết phục được...Tại sao Thưởng không cố gắng quên để sống bình thường như mọi người ?  Mua bán mánh mun, lươn lẹo, chụp giựt, làm giàu ...Tại sao muốn đổi thay, muốn đi trước ? Cái gì phải tới sẽ tới, cãi làm (sao được) chi cái vận mệnh tối đen mờ mịt ? Tự tách rời với tất cả có phải dễ hơn không ? Giấy tờ xin ra ngoại quốc đã xong xuôi, chỉ còn chờ đợi một chấp thuận, một ngày tháng hẹn ...
Dường như, đối với Thưởng bây giờ,  mọi thứ tình trở nên bất lực.
                                                *
Những ngày sau, tôi như gà mẹ sợ mất con, tôi bám lấy chàng, níu lấy Hiền, quanh quẩn lồng lộn như một con mồi cái ngửi thấy mùi thú dữ chờn vờn quanh tổ. Chàng đi mua một tờ báo, Hiền đi chợ, đi thăm một người bạn, tôi trông ngóng, bồn chồn, nhìn bóng nắng, soi mói đồng hồ. Tôi muốn nhốt gió trong gian nhà trống trải, muốn Sơn Tinh và Thủy Tinh hãy quên đi bà Mỵ Nương già cỗi, không biết chọn, hãy quên chuyện năm năm báo oán, đời đời đánh ghen.
Một buổi tối, Hiền bỗng ném tờ báo đang đọc, ôm mặt khóc lặng lẽ. Mọi người bàng hoàng, ngơ ngác.
 Tờ báo nhỏ tám trang chi chít chữ. Trang đầu với những việc cần làm ngay, xung quanh, trên dưới trọn cả trang là công an thành phố đề ra những chuyện cần làm ngay, hưởng ứng những việc cần làm ngay, thi đua, phát động làm những việc cần làm ngay...Những trang sau là thành tích trong năm, trong tỉnh X., hồi ký của đồng chí Y. trong lòng địch, những tường thuật gay cấn về một tổ chức buôn lậu, từ một vụ lường gạt quy mô đến những vụ cướp bóc, từ  những "tiêu cực"(của nhà nước ..ta) , những mặt trái của "môt nước  dân chủ có tiếng nhất phương tây- Mỹ-": Tổng thống Ri Gân tuyên bố phủ nhận quyết định bỏ tiền ra xây nhà cho (bốn triệu) người cùng khổ. Ác đến thế thì thôi !
Cuối cùng, chúng tôi tìm thấy đoạn tin nhỏ ở góc cuối trang chót.  
Ngày...tháng...năm...tại chân dốc cầu Sài Gòn về phía...có xảy ra tai nạn giao thông giữa xe ô tô với người đi bộ, làm người đi bộ bị chết, nạn nhân không mang theo giấy tờ tùy thân. Đặc điểm nạn nhân như sau : nam, khoảng bốn mươi tuổi, cao một mét bảy mươi, mặc áo sơ mi cộc tay màu trắng, quần vải màu xanh xám, sóng mũi cao, trong túi có nhiều trái chôm chôm đã khô. Cổ có đeo vòng dây đen bằng vải sợi, ở giữa vòng dây trước ngực là một miếng vải hình vuông, mềm, dầy và hai mặt, mặt trước màu vàng, mặt sau màu nâu. Xin mời thân nhân đến số nhà...đường...để liên hệ giải quyết.

- Ông bà hiểu giùm cho, chú ấy nhào vào xe tôi,  xe lại đang xuống dốc...Mấy mươi năm lái xe đường trường cũng như trong thành phố, tôi chưa hề gây tai nạn. Có khi chú ấy...
Người đàn ông khổ sở, loay hoay tìm một duyên cớ. Mọi người tìm một lời giải thích. Những lý do, những biện bạch, không cần thiết, rơi chìm, tan biến trước khi thành hình.
Như những ước mơ thuở trước:
                                      ...
                                         Trời trải lụa cho mùa xuân ấm đất
                                         Cho tôi về rẫy lại cỏ trong sân...
                                       ...
                                         Đời thân mật rủ rê tôi trở lại
                                          Sống bình thường như điệu ca dao
                                       ...
                                          Này em hỡi góp tay tôi vun xới
                                          Nửa sân này ta ươm cải trồng hoa
                                          Nửa còn lại ta dìu con tập bước
                                          Hạnh phúc nào cần tìm ở đâu xa*

Chàng lặng lờ xa vắng, bỏ cuốc xẻng, thờ thẩn bước vào nhà mỗi lần đám người tù sắp sửa đi ngang. Buổi tối nặng nề qua, không còn tiếng cười nói phê bình, không còn tiếng hát trầm ấm, ngọt ngào  You...and the night and the music. Đĩa hát cũ với Frank Sinatra của thời mới yêu nhau.
Hiền âm thầm ra vào, lầm lỳ, chối từ những hỏi han, ân cần. Có khi Hiền nấn ná mãi ở ngoài khu vườn. Tôi run sợ lặng người mỗi lần thoáng tiếng đếm bay vào nhà. Còn hi vọng nào nữa đâu ?
Hôm nay được thư Việt, tôi vội vàng ra sau vườn tìm Hiền :
- Có thư em gửi về...
-...
- Con đọc thư em đi...Phải chuẩn bị cho ngày lên đường...
-...
- Hiền ơi, sao con không nghe ...
Hiền ngẩng lên, quai hàm đanh lại, cộc lốc :
- Con không muốn đi nữa !
- Coi kìa, giấy tờ sắp xong,  đời sống ở nơi này ....; con không muốn gặp lại các em sao ?
Hiền quắc mắt,  gằn từng tiếng, tàn nhẫn:
- Nam chết rồi, từ lâu lắm rồi. Việt giấu má. Ba giấu má. Bởi vì má không hề muốn biết. Má bịt tai, che mắt. Người ta đã ngưng mọi phỏng vấn, mọi thủ tục cho đến khi có lệnh mới. Mà đi làm gì ? Con không đi đâu. Chúng ta không đi đâu hết. Ở lại đất này, cho đến hơi thở cuối cùng, như Nam, như...
Hiền nghẹn ngào ôm mặt khóc, tôi rụng rời tay chân, đầu óc, thân hình bỗng nhẹ hẫng. Chút gió còn lại đã vụt bay đi.
                                                                                                             1988- sửa lỗi 2004
    

Trong Mùa Xuân và những con dã tràng, tr.nxb An Tiêm, Paris, France 1995.                                                                                                                                    



* Thơ Luân Hoán

lundi 12 mars 2018

Những đời trăng mới lớn


      Nhng đời trăng mi ln*

 Tôi nhìn thấy cậu trao quyển vở cho anh Tài, bạn cậu, mặt cậu hân hoan, thích thú, đôi mắt nhìn xéo chỉ còn phân nửa, cử chỉ lén lút, đầy vẻ gian tà.

    Cái nét gian tà và lén lút đó cậu truyền qua cả chị Sang, bà chị họ tôi. Chị ở nhà quê lên chơi. Chị trạc tuổi cậu 15 hay 16 và sắp thi trung học đệ nhất cấp như cậu. Chị trắng tươi, mặt trái soan, cầm nhọn, miệng cười  như bông bụp, bông khế, đôi mắt hai mí nâu, vừa to trong vừa long lanh, tóc uốn quăn dài đến ngang  lưng, thân hình  chị tròn lẵn, ngực eo chỉ thua  Thẩm Thúy Hằng chút xíu.  Chị là người đẹp  vô danh, đáng được ca ngợi, như bài học thuộc lòng "anh  hùng vô danh" của lớp nhất, bởi  chẳng ai mời chị làm tài tử điện ảnh, cải lương. Chị hiền thục, dịu dàng, nói năng nhỏ nhẹ. Thần tượng không ngai của tôi ngày đó. Bí quyết làm đẹp của chị? Mỗi sáng rửa mặt bằng nước dừa xiêm! Và tắm mỗi tuần một lần cũng với nước dừa xiêm. Tôi kêu lên:
- Uổng quá trời, rửa mặt thôi, được không? Ở Sài gòn dừa đâu em mua cho đủ số nước? Má sức mấy chịu cho tiền?
- Em muốn có bộ mặt như Bạch Tuyết với một thân hình như ...chà và ? Đi Cấp em mặc áo tắm hay pyjama xuống biển?
Chị nghiêm nghị ban bố bài thuốc gia truyền, cương quyết, khẳng định trên các con số, tôi tin liền song dai dẳng chẳng kém :
 - Tại sao phải tắm nước dừa xiêm trong vòng một năm lận ? Nước  dừa...khô xài đỡ được không?. 
  Vì tới mùa bán dừa khô, ông ngoại chỉ bán phần "cơm dừa" phơi khô, còn phần bên ngoài, từ vỏ dừa cho tới gáo dừa, mộng dừa, thứ nào cũng được giữ lại dùng trong nhà : củi chụm, chén múc nước, riêng nước dừa bị bỏ chảy tràn mặt đất. Nếu tôi chịu khó xách gáo ra hứng, may ra đủ tắm mấy ngày liền trong mùa bẻ dừa khô. Mấy ngày thôi, cũng đủ lột mớ da cũ.
-          Không được đâu cưng à? Làm như vậy da em sẽ chỗ trắng chỗ đen như con cắc kè bông!
Tôi đã thấy cắc kè bông ra sao rồi, cho nên... thôi, thà đen thui mà đen cho đều. Tuy vậy, trong nhiều năm tôi vẫn mơ tưởng được tắm nước dừa xiêm, và hy vọng rằng dù chỉ một lần cũng đủ trắng da dài tóc. Về quê ngoại, không gặp chị ở trong vườn, nên quên mất điều ước, thấy dừa, tôi chỉ nghĩ đến chuyện ăn cơm dừa và uống nước dừa.
Dường như một đôi lần, tôi cũng toan tính "cãi mệnh trời".
Thấy tôi cầm gáo lăm le, ngoại nói :
- Nước dừa khô lạt nhách hè con ơi !
Các cậu, dì, ông dượng, ông chú, ông anh cười tràn rồi sung sướng hè nhau kêu ngoại dẫn tôi ngày mơi, ngày mốt, ngày kia hay ngày kìa, ghé qua vườn họ để nếm nước dừa xiêm vườn nhà họ. Ai cũng( khoe) có vài cây dừa thượng hạng nước ngọt, cơm dừa dày mà mềm nạo, ngon không chỗ chê. Con nhỏ mê nước dừa dữ a !  Tại vì ở Sè Gòn uống toàn nước phông tên, tội nghiệp!. Bao nhiêu chăm sóc dịu mềm khiến gáo (chờ nước dừa khô) lóng cóng trong tay tôi.
- Thôi, cứ uống thử đi cưng, cho biết !
Thì tôi chỉ chờ có bấy nhiêu ! Nhưng nước dừa khô hơn nước mưa một chút tẻo, thua xa nước dừa xiêm, đôi lúc còn đậm mùi xà bông, như cái mộng dừa trắng xốp tuy ngon ngọt hơn. Sau một hai lần lén xách gáo nước dừa  đem ra chỗ vắng vốc rửa mặt, nước dừa xiêm hay khô, da mặt tôi dính dáp, rít nhựa khó chịu, ngứa ngáy. Chợt nhớ đến lời chú thích nghiêm trang của chị :Ấy là chưa kể rủi em "gặp dừa bị trăng ăn , da có thể bị cùi lỡ hay mụn nhọt ". Hãi hùng quá, tôi liệng gáo, chạy nhào ra sàn nước, kì cọ chà xát tẩy rửa.  Làm cạn gần hết nửa lu nước mưa của ngoại mà vẫn còn cái cảm giác rờn rợn trên mặt, nghe như lũ mụn rủ nhau nẫy chồi trên mặt. 
  Phải chi hồi xưa má tôi biết được bí quyết này, thay vì xát xà bông cô Ba, má chỉ cần nắm cẳng tôi mà nhúng vài lần vào (thau) nước (dừa) như má ông thần Achille, chỉ đen một chút ở nhượng chân, ăn nhằm chi đâu, mà mai kia tôi sẽ đẹp như chị !
  Rồi từ từ lớn khôn hơn một chút, nhìn chị nói chuyện nhỏ nhẹ (thỏ thẻ), khoan thai (nhẹ nhàng) ủi quần áo hay gội đầu, chậm rãi (uyển chuyển) bước xuống thang lầu, yểu điệu chải tóc (óng ả)...tôi có linh cảm rằng  ngoài nước dừa xiêm, chị hẳn còn những món bí quyết gia truyền khác, tôi tự nhủ ráng lớn bằng chị bây giờ, theo mè nheo năn nỉ, biết đâu chị sẽ tiết lộ thêm...
                                                                  *
   Chị không hẳn là con gái nhà quê vì  dì Năm Ngó, má chị đã dọn nhà ra thị  xã Bến Tre ngay sau khi dượng Năm chết, dì  thở dài xác định thời điểm :" hồi kháng chiến chín năm".  Chị đi học trường nữ trung học thị xã, mặc áo dài trắng đồng phục cũng như mọi nữ sinh trường trung học công lập ở Sài Gòn. Được nghỉ lễ, nghỉ hè, thỉnh thoảng chị đi xe đò lên nhà tôi ở vài bữa, đi mua sắm, dạo phố, xem xi nê, không ai cho rằng chị là con gái nhà quê. 
  Những hôm đó, bạn bè trong xóm của cậu tôi ghé chơi thường và lâu hơn. Chị nói cười duyên dáng, rực rỡ, lúc kín đáo thẹn thùng cũng như lúc hoạt bát.
Nhà tôi thành  chật chội, ồn ào rần rần con nít  (bọn tôi với bạn bè), choai choai (cậu  tôi và đồng đảng). Nhất  là buổi  chiều, tiếng xe gắn máy "gơ  ben","xách", "mô bi lết"  nổ vang xóm, khói mịt mù đường hẻm, con nít hàng xóm bu đen ngắm nghía, ngưỡng mộ những anh  hùng thời đại mới, tóc chải ổ gà,  bi dăng tin bóng lộn:  ai không giống  James Dean cũng hao hao Elvis Presley hoặc Johnny Halliday.
 Từ lúc xe nổ máy đến khi xe chạy tôi  tính ra đến hàng thế kỷ, vì các người đẹp bận chải gở trang điểm, hò ới rủ rê nhau, có khi chị hoặc cậu sai tôi chạy vào xóm trong kêu réo  người trể hẹn. Vì lắm lúc cậu tôi hứng chí, sẵn khán giả, người đẹp, sẵn không khí (thời chưa chiến** ), cậu ôm đàn ghi ta leo lên giường. Cửa cái cửa sổ không đóng đã đành, cậu còn kêu tôi mở luôn cửa cổng. Từ ngoài người ta có thể nhìn suốt vào nhà : chuồng chim, hồ cá, bàn ghế, giường tủ, đi quăng, và chỗ làm việc ban ngày của gia đình : đó là một khoảng sân gạch rộng chất đầy gỗ ván và những dụng cụ nghề mộc như cưa, búa, bàn bào, thước sắt, thùng đinh, thùng dầu, các lon cọ, sơn, vẹc ni...Trong cùng là sàn nước, nghĩa là nhà bếp, nhà tắm với những thứ lu chứa nước sông  (sông cầu Bông, dĩ nhiên vẫn của thời chưa  chiến- chưa chiến của lũ nhỏ chúng tôi-, sạch trơn, chiều chiều ai cũng có thể  ra bờ sông hứng gió rồi nhào xuống tắm lội),   nước "máy" ( của sông Đồng Nai, trong khe,  nhưng má tôi chê có mùi...hóa học) và hồ nước mưa.  Nhiều thứ nước vì  má tôi phân biệt loại để rửa chân, để ngâm cây, loại tắm giặt, loại nấu nướng, loại uống, mà thứ nào tôi cũng thấy...lăng quăng tung tăng đùa giỡn !
Cậu muốn thiên hạ chiêm ngưỡng chim, cá và những triễn vọng văn nghệ vô danh chứ không phải để quảng cáo mớ lu hay đồ nghề gia đình.
Buổi chiều cơm nước xong ba má tôi lên nhà trên tiếp tục làm việc : tiếp khách tới đặt hàng, lãnh hàng, vẽ kiểu bàn ghế, tủ v...v..Tầng dưới trở thành chốn hội họp của giai nhân, tài tử và quỷ sứ.
  Hậu trường (phông ?) xong xuôi chỉ còn chờ tài tử biểu diễn. Cậu tôi hớn hở cắm dây điện vô cây đàn tối tân (nhà có sẵn cây ghi ta và và cây măng đô lin của thờI ba tôi kháng chiến chốn bưng biền, nhưng cậu chê đồ  "cổ", cậu sắm cây ghi ta điện thời thượng, dẹp lép, màu mè, thiếu điện thì tiếng kêu điếc đặc, lúng búng lùng bùng như bị ai bóp cổ!), cắm dây vào ổ điện thì câu giống như Elvis. 
Xong đâu đó, cậu đứng trên giường-sân-khấu, đầu đội nóc mùng, hai con mắt hớn hở, cậu hắng giọng, búng vài tiếng tưng tưng phừng phừng. Con nít tràn luôn vào nhà,  ngồi xuống ghế, xuống đất, trèo lên đi quăng, lên giường, đeo tay vịn cầu thang, chen nhau ngồi trên các nấc thang. Im lặng, thì thào, huých cùi  chỏ, kéo tóc, kéo tai nhau rồi há hốc mồm chờ đợi.
 Cậu và bạn bè thay phiên nhau lên "sân khấu", trình bày đủ loại ca nhạc cổ kim Ta Tàu Tây, Nhựt. Xong  lắc tuýt  ờ ghen, I' m sorry...so sorry ; y như chương trình đại nhạc hội hay tuyển lựa ca sĩ.
 Qua "đường về thôn xưa ta hát  khúc hoan ca " tới
...cha...cha đến  đây con thật là mừnvui....uạ, mẹ, sao mẹ khóc....Ý Nhi ơi ra  vườn bắt bướm đi con " hay
 ...kìa một nàng  Trung Hoa, răng trắng tinh như là ngà......
 Có anh tốt giọng như Anh Ngọc, Duy Khánh, Hữu Phứơc, có anh đỏ mặt tía tai, gân cổ nổi lên bằng sợi dây lòi tói mà âm thanh ra một cách khó nhọc, có anh ồ ồ  ông ổng ào ào leo tràn ra ngoài khuôn nhạc, rượt nốt nhạc chạy trối chết. Ai cũng hát với tấm lòng thành và trái tim nóng hổi. Nhưng con nít, chẳng cần phải đắn đo tình lý, cứ thẳng cánh phê bình như lúc xem tuyển lựa ca sĩ trên đài phát thanh mỗi chúa nhật, hay xem phim cao bồi rượt giết dân da đỏ, chúng tôi vỗ tay rần rần, reo hò tở mở, dậm chân huýt gió, yêu cầu, la lối... xuốngxuốngBis ! bis !...
 Chỉ khi những mầm non (đầy nhiệt tình) văn nghệ dẹp đàn, kéo nhau leo lên ngựa sắt ra phố mua sắm giải trí, con nít mới tan hàng...
                                                                   *
Ấy vậy mà mấy hôm nay mọi chương trình bình thường yên ắng một cách khả nghi, "thiên  hạ" tụ họp kín đáo, đông đảo nhưng không ồn ào, không mời gọi khán thính giả. Chị Sang dường như không còn thích thú khuyên lơn, thuyết phục hay đe dọa khi tôi theo lẳng nhẳng cò kè về số ngày và lượng nước dừa phải có. Cậu tôi cũng đìềm đạm dễ ghét. Dĩ  nhiên, nghề của cậu là luôn giữ bí mật cho tới phút chót để đánh lạc hướng bọn con nít chúng tôi, chẳng đứa nào kịp vòi vĩnh, kịp năn nỉ khóc lóc. Cho nên tôi quyết tâm lẩn quẩn loanh quanh bên cậu, mưu toan phá tan mọi kế hoạch từ trong trứng nước, tuy biết chắc mười mươi rằng cậu sẽ thắng, như mọi lần.
 Chị Sang cười chúm chím, anh Tài gãi gãi mái tóc chơm bơm, anh Ngộ ráng kềm giọng vịt đực để chỉ cười khục khục trong cổ họng...ô, tất cả mọi người đều có một cái gì chung khiến họ âm thầm thú vị, khoái chí .
 Con Mậu, em anh Tài bàn với tôi, phải báo động cho con Huệ cùng để ý và theo dõi. Bộ ba chưa biết phải bắt đầu ra sao thì một buổi tối, Mậu kêu tôi ra ngoài nói nhỏ : mọi bí mật nằm trong quyển vở. Tao thấy anh hai tao trốn trong cầu tiêu để đọc ..
Anh nó vừa đem trả quyển vở cho cậu tôi. Tối đó, như thường lệ bọn con nít  chúng tôi bị luà lên lầu ngủ sớm. Chờ  yên một lúc, tôi lén bò xuống nhà. Tôi thấy chị Sang đang ngồi hí hoáy viết. Vờ đi tìm nước uống tôi quẹo cua, xà đến lé mắt nhìn, chưa kịp thấy gì cậu tôi đã chạy a lại chen giữa tôi và chị. Chị bật cười lớn vừa đóng ập hai quyển vở, một quyển màu xanh cũ sờn có hình ông đạp xich lô máy, quyển kia màu đỏ, mới toanh.
 Rõ ràng chị đang chép cái gì từ quyển xanh sang quyển đỏ. Không thể là tập thơ ca, không thể là nhật ký. Mấy món này tôi đã xem qua rồi. Tập thơ ca cậu chép những bài thơ, bài ca thịnh hành, có dán hình ca sĩ, chính tay cậu minh họa núi non hoa lá. Sau này bỏ học chữ để học đàn và đi làm ra tiền rủng rỉnh, cậu mới mua những bản nhạc kẻ khuôn, ghi nốt, lời, tên tác giả với tranh bià của họa sĩ Duy Liêm. Còn tập nhật kí đời cậu, bìa đen cứng, chữ mạ vàng, cậu siêng năng và đều đặn ghi chép. Khi viết, bàn tay trái khum khum che mắt thế gian.  Sợ người ta cóp ý hay biết được ..tim đen của mình. Cái món này đố đứa nào xin được cậu cho dòm một cái!. Nhưng một lần, đang nhăn nhó cắn bút  tìm chữ hay hồi tưởng dĩ vảng, bị Tào Tháo chợt rượt, cậu chỉ kịp ném bút, chạy ào vào cầu tiêu, tôi lợi dụng tình thế, nhào lại ghé mắt  xem trộm "lịch sử đời ta" đang nằm mở ra, phơi lòng chi chít những tâm sự.
 Chữ cậu nhỏ, góc cạnh mà đều đặn,  rắn rỏi mà hiền lành đủ nét, ngay ngắn.
"Hôm .nay lãnh lương (con số và dấu đồng đô la). Ra Hàm Nghi mua đồ ăn cho , hết:...(con số). Đi coi Samson et Dalila, Victor Mature hùng dũng ác luôn, về  ghé thạch chè Hiển Khánh ăn hai  ly đậu xanh lỏng, ngon, hết thảy:..(con  số). Ngon nhưng mắc quá.  Trong phần quảng cáo phim kỳ tới, le repos du guerrier có Brigitte Bardot,  mình phải rủ Tài đi coi.  B.B và Marilyn  Monroe là hai người con gái đẹp nhất thế giới".
 Kết luận cho hai mươi bốn giờ trong đời cậu:" tuy là ngày lãnh lương, nhưng xài như vậy hơi nhiều đó nghen : phải bớt bớt xi nê, đại nhạc hội, lo để dành tiềmai mốt  mua đồng hồ Longines chánh hiệu và bằng vàng. Hàng cuối viết bằng chữ in và có gạch đít với ba dấu chấm than. Cứ hai ba trang câu thần chú đó lại xuất hiện một lần. Mục tiêu đời cậu.
  Vậy quyển vở kia là gì ? của ai ? hay ho đến nỗi các cậụ phải sao chép và chuyền cho nhau ?  Truyện chắc thần  kì, ghê rợn, giết chóc dữ  dội nên con  nít chúng tôi không được xem ?
    Chị Sang say sưa chép trong lén lút và ...ngoài ánh mắt tức tối của tôi : tổng cộng chắc hơn ba bốn bản, bởi chị trở về quê với một xấp giấy vở  "xích lô máy" nhét  kỷ trong các túi xách, bao gói lủ khủ. Cậu tôi vẫn  còn  cái thái  độ rất " mờ ám". Tôi nói với Huệ và Mậu, chỉ còn một cách...
 Huệ giao hẹn : đưa tao coi trước nhe. Mậu cũng đòi xem trước. Huệ mê đọc truyện như tôi, học trước tôi một lớp, đậu vào đệ thất  trường Trưng Vương năm ngoái, cách đây vài tháng khoe với tôi rằng "tao mới có đường kinh". Hỏi tới tấp nó chỉ tủm tỉm hé lộ từng mảng bí mật, khiến tôi kinh hoàng chờ đợi vì nó hăm "thế nào rồi mày cũng bị à !"."Ừa,  chảy máu nhiều lắm""...nhiều  là bao nhiêu?..."chảy ồng ộc". "Trời! Mấy tháng lận ?  Xùi ! Ba ngày, một tuần thôi ." " Mà chảy chỗ nào? " "Sao mày ngu quá vậy, mà thôi, nói trước làm chi.., mai mốt bị rồi biết !". Huệ là đứa chuyên môn khiến tôi thấy cuộc đời đầy bất trắc. Thí dụ, khi tôi hỏi học lớp đệ thất khó không? Nó trợn mắt :
- Khó lắm, vì sẽ phải học đủ các môn, ngoài các môn bình thường như sử kí, địa lí vv...thêm các môn lạ như sinh ngữ, đại số, trần thuyết, nữ công, gia chánh...mày sẽ phải học với nhiều giáo sư khác nhau, nhiều bà dữ như chằng tinh...Chưa kể một điều : liệu mày có đậu nổi kỳ thi tuyển vào đệ thất không? Thi xong thì biết !
Tương lai nào cũng xa vời vợi, đầy khó khăn, hiểm trở. Tương lai đệ thất và tương lai da trắng như cơm dừa. Dù Mậu hứa : "đưa tao trước, tao mách chuyện đường kinh cho mà biết. Má tao kể hết trơn. Thiệt mà! " Huệ dỗ dành : "tao chỉ chỗ luyện thi đệ thất, bảo đảm đâu ngay, rớt trả tiền lại! " 
Sống trong hiện tại, là ra tay lấy tài liệu mật hấp dẫn và dễ dàng, vừa tầm tay..như theo dõi "kẻ gian"(ba đứa tôi vừa đọc xong "Vết tay trên trần" của Phạm Cao Củng, và điệp viênVăn Bình đang gây sóng gió trên các nhật báo, chúđng tôi ứa nào cũng muốn làm Z.28 ) 
  Tài liệu mật ? Dễ ợt ! Tuy tủ cậu tôi có ống khoá nhưng cậu là vua hay quên khóa, cái gì cậu cũng cất trong tủ nên cứ phải mở ra, đóng vào liền liền, ngày nào cũng trăm lần đóng mở và cỡ chục lần quên cả chìa trong ống khoá. Thành ra cũng như chuyện chim chóc, cá rùa, cậu cấm cản mà lũ tôi đứa nào cũng lắm phen được vuốt ve bồng ẵm những con thú yêu quý của cậu, đứa nào cũng có lần được cậu cho phép đứng trước tủ cậu "coi thôi à nghen, cấm rờ "...
 Tủ cậu ngăn nắp và đầy của hay vật lạ, nào là tập tem sưu  tầm, tập nhạc, giấy dò -gram xi nê, đại nhạc hội cả chồng, viết máy pa ke còn nằm trong hộp, giàn ná bắn chim có khắc đẽo tên họ, hoa lá, vợt ping pong có chữ kí của (các) tay vợt số một thủ đô, những tập hình tài tử điện ảnh, cải lương v...v...
                                                              *
    Tôi thó được quyển vở xanh nằn tận dưới mấy lớp quần áo, hí hửng chạy nhào vào buồng tắm. A ha, phen này thì bí mật bị bật mí, bộ ba tụi tôi cũng sẽ chúi vào nhau mà cười, sẽ nhìn nhau nheo mắt...sẽ...sẽ...
 Hẳn là truyện phiêu lưu mạo hiểm hay trinh thám gì đây, truyện ngắn tủn chỉ độ mươi  trang là cùng. Tựa viết  nắn nót bằng ngòi viết lá tre " Bảy đêm khoái lạc". Không nghìn lẻ  một đêm, ngắn là phải, nghe cứ như hai mươi ngàn dặm dưới đáy bể hay tám  mươi ngày vòng quanh thế giới. Chẳng có tên tác giả, hay là chuyện dịch ?
   Nhưng trời hỡi, càng đọc tôi càng thấy...kì cục, truyện chỉ có hai nhân vật là "em với chàng".  Hình như là tuần trăng mật sau ngày cưới. Hình như là lời khai của cô dâu. Suốt mấy trang ngắn ngủi, một tuần trăng rùng rợn "em" đớn đau  khóc lóc,"em"sung sướng khoái lạc. Đêm thứ nhất rồi đêm thứ hai, thứ ba, đôi nhân vật không ngừng  nghĩ quấn lấy  nhau, kẻ trên người dưới, có những miêu tả như những màn  "võ"  kì dị, những thế "đánh" quái gở. Không  một câu đối thoại, không một tình tiết gay cấn hồi hộp. Tuần trăng mật là thế a ? Các chuyện tình trắc trở hồi đầu, qua những sóng gió hiểu lầm, mẹ cha cản trở, thường kết thúc bằng cái đám cưới và tuần trăng mật.  Và tuần trăng mật có nghĩa như vậy a. Chẳng trăng chẳng mật rặc những chữ nôm na tục tằn thô lỗ chỉ nghe từ các bà bán cá bán thịt ở ngoài chợ Đa Kao hay từ những bà hung dữ nhất xóm khi họ chửi nhau. Tôi đọc một loáng là xong.
 ...Vừa gớm ghiếc vừa thất vọng tôi chạy vù qua nhà Mậu :
 - Chuyện dở ẹc! Và tục lắm, chắc là dành riêng cho tụi con trai ngu đần. Coi rồi đem qua cho Huệ  xem, dặn nó mai trả tao.
  Nhưng tôi về  chưa được nửa giờ thì bác Sáu, má Mậu, một tay lôi nó xềnh  xệch vào nhà tôi, mặt bà trắng bệt, bà thở hổn hển, tay còn lại bà xỉa xói tôi. Nhỏ Mậu không dám nhìn ai, gục đầu khóc hụ hụ. Tôi chắc cũng xanh mặt vì  nhận ra ngay quyển vở chán phèo trong bàn tay đang vung vẩy xỉa xói kia :
- Trời ơi mới bây lớn mà đã bày đặt dụ dỗ con gái tui vào đường dâm đãng!
 Tôi hoang mang và cực kì sợ hãi, người cứng đớ ra. Làm sao Z.29 để rơi tài liệu mật vào tay KGB ? Thôi rồi, đúng rồi, phải chi tôi đưa cho Z.30 Huệ xem trước ! Đúng là chuyện bậy bạ không dành cho con nít, phen này là đòn nặng. Ba tôi từ từ đứng lên, buông viết, bỏ cọ, bước lại gần má Mău :
- Chị đưa tui coi.
Bà dùng dằng không định đưa như sợ mất tang vật, nhưng rồi cũng đành buông tay, quay sang léo nhéo với má tôi.  Lùng bùng hai lỗ tai vì không muốn nghe, nhưng tiếng còn tiếng mất cũng chui được vào đầu tôi :
- Con nít thời  nguyên tử  mà...hỉ  mũi  chưa sạch...đã đọc chuyện  tồi bại, tục tĩu...sơ hở là hư cả lũ...thiệt hết sức nói...hết sức nói...hết sức...
 Bà than thở vậy chứ vẫn dư nội lực để vừa nói với má tôi, vừa liếc chừng nét mặt của ba tôi lại vừa dằn cánh tay nhỏ của Mậu.  Mỗi hết sức nói  như vậy, là mỗi lần cái đầu nó va vào hông má nó, vặn nút lớn tiếng thút thít. Hồi lâu, tôi hơi hoàn hồn, vừa giận lại vừa"khinh" Mậu hèn nhát, chẳng anh hùng tí ti,  nếu là tôi ấy à, có mà tra tấn và đổ nước  mắm vào mũi,  may ra....Không, chưa chắc, sẽ không bao giờ tôi khai...Mậu quên rằng ba đứa  đã từng trốn mẹ cha lội sông bắt  cá-không tên nào biết  bơi-, đã từng bênh nhau hết mình  khi phải gây gổ với tụi con gái xóm dưới- . Từng sống chết có nhau mà bây giờ...ôi, con nhỏ dở tệ...Z.00 còn giỏi hơn nó!
 Ba tôi lật lật cuốn tập, hỏi Mậu:
- Của nó đưa cháu mượn à ?
 Mậu mếu máo:
- Dạ.. híc híc...mà hổng phải của nó! Híc híc.. Của cậu Tâm...
Thế là lòi thêm tội ăn cắp, cái con Mậu này, bộ nói rứa thì mọi lỗi lầm sẽ chạy qua cậu tao ? nghỉ chơi mày ra !
Thế rồi, thoắt một cái, ba tôi xé tan cuốn tập, trước cái mồm há hốc và ánh mắt dường như tiếc rẻ của bác Sáu.
Ba tôi nói:
- Thứ nhảm nhí đó xé bỏ cho rồi, chị Sáu ! Cháu nó dại, chị đừng chấp, để tui rầy...
 Má tôi hét tôi : " đi lấy cây thước bảng rồi nằm xuống chuẩn bị ăn đòn", bà quay qua má con Mậu vừa an ủi (?) vừa hứa hẹn sẽ trừng trị đích đáng kẻ có tội...
                                                                    *
Ô, nằm dài trên đi quăng, chờ câu hỏi dạo đầu "tội này tính mấy roi?"( và nhẩm trong bụng câu trả lời phổ  quát của toàn dân "dạ một roi!")...mà lâu quá không thấy tới, tôi mừng hết lớn, kiểu này chắc có khách tới đặt hàng. Tôi nhỏm dậy ba chân bốn cẳng leo lên lầu, chui vào giường. Chờ đến mai mọi sự sẽ giảm cường độ, mười roi sẽ hạ xuống còn năm, má tôi sẽ không đủ thì giờ để nhắc nhở :
- Đây là lần thứ...mấy ? Đã dặn không được làm gì để hàng xóm qua mắng vốn, tụi bây là con bất hiếu...v.v..và v.v..
 Ngày đó, mỗi lần nghe câu này, tôi rất bất mãn, không hiểu tại sao ba má mình lại "sợ" hàng xóm như vậy. Hôm sau, bản án được giảm khinh đến không ngờ, tôi chỉ bị rầy về tội cả gan lục tủ cậu,  không phải ăn cây thước bảng nào hết. Đến tối, ba tôi chỉ nhẹ nhàng hỏi học bài, làm bài chưa, con rửa tay chân, đánh răng đi ngủ !
 Cậu tôi cũng hiền hòa thông cảm "dại quá, tao đã nói sách cấm con nít" rồi như thấy chưa  đủ cậu hứa thứ bảy sẽ cho tôi theo cậu ra dạo chợ thú Hàm Nghi.
  Hình như tôi vừa đặt (giùm? cho ai?) viên đá đầu tiên, hình như  tôi vừa  bước (giùm? cho ai? tôi? ) cái bước đầu tiên, dễ dàng (??) vô tình và vô tội cho tôi, nhưng quá sức khó khăn cho người  lớn. Và những bước kế tiếp thì sao?.
  Trong xóm, má con Mậu thù dai, mỗi lần thấy tôi đi ngang nhà, bà hầm hầm ra đứng ngay ngưỡng cửa, đôi tay chống nạnh, hai con mắt trắng dã gườm gườm nhìn tôi, bà sừng sộ như con gà mái xoè cánh bảo vệ con, khiến  tôi chưa kịp làm diều hâu phải đành cúi đầu rảo bước. Đã hết đâu, bà qua méc sao đó khiến má Huệ cấm Huệ giao du với tôi suốt một thời gian dài. Thời gian đó, tôi bơ vơ đau khổ vì thiếu bạn chơi và thiếu nước dừa để tắm.
  Vài hôm sau nữa, má tôi kêu tôi đến trước tủ sách gia đình, chỉ vào ngăn chứa sách học, chậm rãi bảo rằng tôi nên xem, nên "đọc loại sách này để hiểu biết thêm, chỉ coi tiểu thuyết hay truyện Tàu, không đủ" . Đấy là phần sách tôi ngán nhất, cậu  tôi bảo"sách người lớn",  ba tôi nói "sách học làm người", tụi nhỏ chúng tôi thì nhìn nhau: "sách khó tiêu", đám sách này còn phẳng phiu đẹp đẽ vì chẳng đứa nào rớ tới. Thỉnh  thoảng tôi lôi ra lật lật phất phơ " Thanh niên và thực nghiệp" "Bắp  thịt trước đã" "Nghệ thuật nói chuyện trước công chúng", "English for you". Quyển má tôi soạn ra đặt sát bên ngoài để lưu ý tôi là "Ái tình bửu giám". Đọc được năm phút, tôi đã ngáp dài, hóa ra cuốn này cũng như quyển vở xích lô báo hại  kia, tuy chữ dùng bác học(?), thanh tao, mà cớ chi càng đọc tôi càng tối  tăm mặt mũi. Bỏ qua luôn cũng không nghe má tôi nói gì.
 Viên đá kế có cần thiết ? Bước thứ nhất cũng là bước cuối cùng?
                                                                   *
  Những ngày tháng nối tiếp che lấp lên nhau, mưa nắng, bão lụt, pháo kích, bom mìn, thoắt một cái những gì  đã qua dường như chưa bao giờ có mặt, không một trí nhớ cho ngày hôm qua, cho ngày sắp tới, tất cả chỉ cho một  hôm nay duy nhất và rối mù những  nguy hiểm, có gì đáng kể, có gì không cần thiết, tôi biết được không?
                                                                    *
   ...Cậu tôi dẹp đàn, bán xe sachs mua xe honda, và bắt đầu tương tư mọi bóng hồng thấp thoáng qua nhà trên, trong xóm dưới. Bạn bè cậu đi tứ tán, thỉnh thoảng có về  thăm nhưng lớp "bụi chinh chiến" ngăn cách họ với cậu, chẳng bên nào hiểu được bên  nào tuy tình bạn  vẫn còn. Bạn cậu ngổ ngáo, tự tin, chán đời hay kiêu hùng, tận tình sống cái hiện tại giới hạn của mình, cậu tôi dường như không thể lớn, không phải chỉ vì thân xác không thể lớn. Cậu bị ra rìa mà không hay biết đấy thôi. Tạ ơn trời !.Cho nên cậu vẫn giữ tâm hồn của tuổi choai choai. Cậu sống thoải mái, vô tư trong cái hôm nay của cậu. Trong khi tôi cứ lo rằng mợ tương lai của tôi sẽ cứ mãi là giấc mơ. Như đồng hồ Longines chánh hiệu Thụy Sĩ.
 Người đẹp sắp đi ngang, cậu biết từ kiếp trước, nhấp nhỏm chẳng yên, chuẩn bị như đón  tổng thống đi kinh lý. Hớt  tóc xong cậu diện bộ đồ đẹp nhất, tay chống nạnh để  mọi người cùng thấy đồng hồ Seiko, rồi cắm cây si tại chỗ, chờ người đẹp. Cậu ngóng  từ lúc nàng còn là một chấm nhỏ trên võng mô, từ bên kia đầu cầu Bông đi tới hay từ dưới chợ Chiều đi lên, rồi mở ống nhắm bao trọn người đẹp từ mười lăm mét bên trái, tới năm mét bề ngang nhà, qua mười lăm mét bên phải nhà, vị chi ba mươi lăm mét (?). Khoảng cách cần sử dụng tối đa (?) để đôi mắt đắm đuối của cậu nói lên những lời nói đam mê của con tim. Tín hiệu cậu kêu ò e như xe chữa lửa. Không nàng nào bị bệnh quáng gà hay lãng tai. Cho nên nàng liếc một cái. Có bà rộng lượng-phải tin là rộng lượng-cười mỉm cho một nụ. Cái liếc cái mỉm dài bằng một tích tắc trên hai mươi lăm mét, hơi ít nhưng đủ để cậu hớn hở quay vào, cả ngày làm việc hăng say vừa huýt sáo líu lo, hào phóng với đám cháu, tối ngồi tả nỗi vui vào quyển nhật kí. Chắc là thôi rồi nàng sẽ yêu tôi. 
 Cứ thế cho đến ngày "nàng"lên xe hoa theo người khác. Đường tình duyên của cậu dặm chân tại chỗ mà cậu không biết thay đổi sách lược, nhiều khi tôi có cảm tưởng mình còn sốt ruột hơn cả cậu, và vì cậu vẫn là cậu, tôi là tôi, cho nên tôi vẫn tà tà sốt ruột. Tại cậu  đã đốt giai đoạn, phải chi cậu chịu khó đọc "đắc nhân tâm"hay "làm sao chinh phục phái yếu" trước. Phần tôi, về sau dù không có dịp đọc lại quyển nọ hay cuốn kia, tôi thấy rõ ràng chuyện ngày ấy tuy đại khái mà có tác động thô bạo, đã in hằn trong trí nhớ, với những ấn tượng và những câu hỏi. Ấn tượng hay chấn thương? Kỉ niệm hay bài học ?Về điệp viên Z.. và Ái tình Bửu Giám.
                                                                      *
  Dạo đó, chị Sang chưa kịp thi Trung học, bỏ trường đi lấy chồng. Đám cưới hơi gấp không ai kịp về dự. Tin tức từ quê lên cũng rời rạc, uể oải, chỉ những ái chết bất ngờ của bà con mới bay đến nhà tôi với nhiều chi tiết và nguyên nhân, như một xác định đến từ  vô thức, để người còn lại nghe thấy rõ ràng họ đang sống, đang hiện diện. Chỉ biết rằng chị ở nhà mẹ chồng, sinh con năm một. Không biết để khỏa lấp những mất mát hay giản dị hơn, giúp anh ấy được miễn dịch, miễn bị tổng động viên .
  Lần về thăm chị trước khi đi xa, tôi thấy chị nằm trên võng ru bé Sáu, vạt áo hở bờ bụng căng phồng trắng hếu. Con bé Hai chạy đi lấy nước  mời khách, bé Ba và bé Tư đang  níu tóc nhau dành giựt đồ chơi, con bé Năm đứng ôm sợi dây đưa võng, mở đôi mắt to của mẹ nhìn tôi không chớp. Ông chồng chị cười cười : nếu bé Bảy là con trai, anh sẽ "đi cột bả" . Thấy chị  lườm, anh sửa lại  :"đem thiến tui". Hồi xưa, phải chi chị ngồi chép "Ái  tình bửu giám" cùng lúc với " bảy đêm khoái lạc"?  Giản dị như  một bí  quyết làm đẹp ?
  Chị vẫn đài các, quyến rũ, nụ cười hiếm hoi nhưng vẫn như hoa nở rộ, nếu chồng chị giữ lời, "



đem thiến tui" ngay sau khi chị sinh bé Bảy, chị sẽ còn đẹp tới ngày trăm tuổi. Năm đứa con gái ! Chắc chị phải mua cả một vườn dừa mênh mông!
                                                                       *
   Mậu rớt tú tài một, bỏ ngang đi bán "ba". Mỗi chiều đi làm, Mậu dẫn xe honda ra hẻm,  hai con mắt tô xanh cúi gầm chỉ nhìn cái bàn đạp và con đường đất đá lởm chởm, đôi môi đỏ son mím chặt, ô, đôi môi y như ngày nào bác Sáu chu chéo mắng mỏ tôi. Màn kịch năm xưa lại thấp thoáng hiện về, dằn vặt, tra khảo. Lỗi của tôi phải không dù hai đứa chẳng còn thân như trước ?
  Tôi còn nhớ, hẳn Mậu cũng chưa quên. Ngày ấy bác Sáu có quá đà ? Ngày ấy bác níu  tay Mậu dẫn qua đường người lớn ra sao? Bác tiên tri đúng chăng? Nếu không sao Mậu thiếu nét yêu đời? Hay thật ra Mậu chả nhớ gì, chả bị thương tích chi, có cô gái bán ba nào vui cười khi đối diện với chính mình ? Và tôi có yêu đời đâu dù không phải đi bán ba?
   Hàng triệu, hàng tỉ người đã sống, đã đầu thai, hoá kiếp, họ "chép bài" ,"trộm vở" ra  sao? Có rầy con, nhiếc móc đay nghiến hàng xóm ?   
  Tạ ơn ba má đã không cho con ăn đòn thuở nọ.

                                                                                                                11-1993
  * Thơ Nguyễn Đức Sơn :
  Huyền diệu quá những đời trăng mới lớn
                  (trong Những linh hồn trẻ)
** Một tựa sách của Đỗ Kh.

_Trích trong Mùa xuân và những con dã tràng, nxb An Tiêm, Paris, 1995